Thứ Bảy, 26 tháng 12, 2015

TỈNH THỨC VÀ HIỂU BIẾT

Trong bài kinh Kalama nổi tiếng, thường được nhắc đến, Đức Phật đã đề ra mười điều mà ta không nên dựa vào để chọn người thầy hay để đi theo con đường tâm linh nào đó. Tất cả đều có liên quan đến một hệ thống niềm tin dựa vào truyền thống hay vào các cổ thư. Không tin nhưng ta phải tự tìm ra sự thật là điều Đức Phật thường nhấn mạnh. Nếu không làm thế, ta sẽ khó có được cái thấy nội tại, là bước đầu tiên đưa ta đến con đường đạo.
Cái thấy nội tại là một kinh nghiệm được thực chứng. Không có nó, tuệ giác không thể phát sinh.

Điều đó đúng đối với những vấn đề bình thường trong cuộc sống, cũng như sự hiểu biết sâu sắc về giáo lý của Đức Phật. Thí dụ, có ai đó không vừa lòng với ta, nếu ta không tìm hiểu tại sao, thì sự hiểu lầm giữa ta và người đó sẽ không bao giờ chấm dứt. Ta cần phải nhận rằng hẳn mình đã nói hay làm gì đó khiến người kia phật lòng. Đây chỉ là vấn đề nhỏ nhưng nó cũng cho thấy ta cần có sự hiểu biết về kinh nghiệm của mình.
Nếu ta nghĩ rằng những điều đó xảy ra ở bên ngoài, không dính dáng tới ta, thì ta không thể thay đổi cách hành xử của mình. Pháp hành có nghĩa là không ngừng chuyển hóa bản thân để đạt đến chỗ hoàn hảo. Nếu ta không thể chuyển đổi thì hóa ra công lao hoằng pháp của Đức Phật là vô ích sao?
Nếu ta không hoàn toàn chú tâm đến từng chi tiết, ta sẽ chẳng bao giờ chuyển hóa đến chỗ tuyệt đối. Chú tâm đến chi tiết là cốt lõi của chánh niệm. Tuy nhiên, phần đông không được hướng dẫn hoặc không thực sự thực hành chánh niệm. Hiểu biết qua sách vở là một chuyện, thực hành lại là chuyện khác. Chánh niệm là cốt lõi của trí tuệ, vì không có chánh niệm ta sẽ không thể nhìn thấu suốt vấn đề gì.
Theo dõi hơi thở có nghĩa là “biết chính xác”. Chánh niệm không phán đoán, phân biệt, vẽ vời. Chánh niệm biết khi nào tâm định, khi nào tâm phóng đi và khi nào nó trở nên bình an. Sự chánh niệm hoàn hảo biết điều gì đang xảy ra trong từng giây phút.
Khi ta chú tâm đến các cảm xúc, chỉ quan sát chứ không phản ứng lại với chúng, là ta đang hành niệm thứ hai của Tứ niệm xứ, vedananupassana (niệm thọ). Khi ta biết mình đang suy tưởng,cittanupassana (niệm tâm) và khi ta biết nội dung suy tưởng, đó là dhammanupassana (niệm pháp). Nếu không chú tâm, ta không thực sự tỉnh thức. Ta cần luôn thực tập sự chú tâm rõ ràng vào các đối tượng này.
Khi hành thiền tâm có thể trở nên an định. Nếu có cảm giác an bình, ta phải biết điều đó rõ ràng. Nếu không thể nhận thức điều gì đang xảy ra, ta không thể tiến xa hơn, vì ta không biết mình đang ở đâu. Một chi tiết quan trọng của việc hành thiền là biết chính xác điều gì đang xảy ra, và có thể mô tả lại điều đó sau khi nó xảy ra. Điều mô tả là kinh nghiệm đã được nếm trải. Nó tự động xảy ra theo sau sự việc. Điều này đúng đối với bất cứ trạng thái tâm nào hay bất cứ cảm xúc nào.
Pháp là các trải nghiệm của Đức Phật được mô tả lại. Nếu ta không thể làm thế đối với chính những trải nghiệm của bản thân, là ta sống trong hệ thống tín ngưỡng, có thể khiến tâm ta mờ mịt. Trong khi thiền là để làm cho tâm sắc bén. Tâm chánh niệm là chiếc búa đã được mài, với lưỡi bén, mỏng, nhọn, có thể cắt xuyên qua tất cả mọi vọng tưởng của ta. Khi ngồi thiền, ta có thể biết các chướng ngại trong tâm: như là tâm ù lì không biết việc gì đang xảy ra, hay tâm mê, tâm phóng dật, tâm sân không muốn vâng lời. Đó là chánh niệm về tâm pháp.
Như mọi chúng sanh khác, tâm ta thường phóng dật, luôn tìm cách tránh khổ và mong cầu hạnh phúc. Điều này thật khó thay đổi. Nếu ta quán sát thấy mình đang chống lại cái khổ, tìm kiếm điều dễ chịu, ta phải biết đó chỉ là cách hành xử theo thói quen bình thường. Đó là cách vận hành của thế giới này, là cách nền kinh tế này hoạt động. Nhưng bạn có thấy ai thực sự hạnh phúc trong đó không? Đó là một cuộc phiêu lưu vô vọng, chắc chắn thất bại, vậy mà tất cả mọi người vẫn còn cố gắng chạy theo. Tất cả đều đã cố gắng đủ lâu rồi, giờ ta có thể buông bỏ, ít nhất là trong thời gian ngồi thiền.
Ta có thể thoát khổ (dukkha), nhưng không phải bằng cách loại bỏ các cảm thọ khó chịu, mà chỉ bằng cách loại bỏ các phản ứng đối với chúng. Đây là cửa chính để bước vào con đường tâm linh. Nếu ta không hiểu rõ điều này, thì mọi thứ đều thất bại. Chúng ta sẽ không thoát khỏi sự khó chịu của việc ngồi lâu, của muỗi mòng, hay của bất cứ khổ thọ nào mà ta gặp phải. Tất cả đều do tâm tạo, do tâm phản ứng lại. Dukkha (khổ) sẽ biến mất khi các phản ứng của ta biến mất.
Trừ khi ta biết chính mình là người tạo ra cái khổ cho mình, thì khó thể nào ta thấy Pháp. Chúng ta bắt đầu biết tu khi không còn đổ lỗi cho hoàn cảnh, tha nhân, thể chế chính trị, kinh tế hay thời tiết. Chúng ta sẽ chỉ nhìn thấy các phản ứng của bản thân. Dĩ nhiên các phản ứng này không phải tất cả đều khả ái, thiện lành ngay. Phải cần có thời gian. Nhưng ít nhất ta có thể bắt đầu làm gì đó cho bản thân.
Chánh niệm không chỉ cần có mặt trong khi ta hành thiền, mà cả lúc ta hành động, cảm thọ hay nghĩ suy trong đời sống hàng ngày. Khi thức, chánh niệm phải là đối tượng chính yếu của ta. Ta phải tự biết mình. Chỉ khi đó ta mới mong một ngày hiểu được thế giới. Vũ trụ chính là thân và tâm này. Khi ta biết được thân và tâm này là gì, ta sẽ biết về vũ trụ và những chân lý tiềm ẩn trong đó. Tất cả rõ ràng đều giống nhau, nhưng ta phải biết nó là gì.
Khi rời khỏi chiếu thiền, ta phải tỉnh thức nơi mắt nhìn, thân chuyển động, về tất cả những gì ta đang làm. Tại sao? Trước hết, điều đó giúp ta không nghĩ ác, không tưởng điều bất thiện. Nó giúp cho việc hành thiền của ta dễ dàng hơn. Tâm cần được kiểm soát, không được để nó chạy loanh quanh. Tâm bình thường, không rèn luyện giống như một con bò hoang dại thả rông trong vườn nhà. Chỉ trong chớp mắt là nó sẽ phá tan hoang khu vườn. Tâm của ta cũng thế. Nó cũng làm cho thế giới ta sống trở nên một bãi chiến trường. Không cần phải đọc báo ta mới biết những điều đó. Chúng có mặt ở khắp nơi, ngay từ tâm ta mà ra. Tất cả chúng ta đều ở trong đó, trừ các bậc giác ngộ. Tâm hoang dại không thể thiền. Ta phải bắt nó đứng lại, kiểm soát, ngăn chặn nó. Mỗi khi nó phóng chạy, ta dùng chánh niệm để bắt nó quay về, giống như huấn luyện con ngựa hoang, nếu không, nó không làm lợi ích gì cho ai cả. Nhưng khi đã được thuần hóa, huấn luyện, ngựa sẽ rất lợi ích. Điều này cũng đúng với tâm biết bao!
Chánh niệm về thân có nghĩa là ta biết tất cả mọi chuyển động nơi thân. Khi quán sát bản thân, ta sẽ thấy có tâm và thân. Tâm ra lệnh, và thân tuân hành. Ta cũng nhận thấy rằng đôi khi thân không thể vâng lời tâm vì nó yếu đuối. Đây là cửa đầu tiên để vào thiền tuệ, khi biết rằng có thân, tâm và tâm thì quan trọng hơn. Cái khác biệt giữa người có tu tập và người không là sự thực chứng.
Chánh niệm về các chuyển động của thân cũng liên quan tới các đối tượng chánh niệm khác. Thí dụ, nếu ta đang lo nghĩ đến tương lai thì ta không còn để ý đến thân nữa; thay vào đó ta có thể chú tâm đến quá trình tư duy. Ta biết mình đang nghĩ suy, đang tạo nghiệp. Các tư tưởng là tâm hành, cũng như nghiệp hành. Chúng ta là chủ nhân của nghiệp mình. Chúng ta suy nghĩ như thế nào thì chúng ta sẽ là thế ấy. Đó là một quá trình tự nhiên, không liên quan đến một chủ thể đặc biệt nào.
Sau đó chúng ta có thể bắt đầu ý thức đến nội dung tư tưởng của mình, có nghĩa là ta biết chúng thiện hay ác. Ta có thể tập buông bỏ bất cứ suy nghĩ tiêu cực nào và thay thế nó bằng cái khác. Ngay đó ta có thể khởi tâm thiền, mà không tách rời khỏi các hoạt động bên ngoài. Khi đang chú tâm đến hơi thở trong thiền, một ý nghĩ xen ngang, ta tập buông suy nghĩ, trở về với hơi thở. Ta có thể sử dụng quy cách đó trong đời sống hàng ngày để buông những suy nghĩ bất thiện. Lúc đó ta thay thế bằng ý nghĩ thiện, giống như khi đang hành thiền ta thay thế bằng hơi thở.
Chánh niệm về quá trình tư duy được Đức Phật gọi là “bốn nỗ lực cao thượng” (hay bốn tinh tấn ba-la-mật: 1. Tránh các trạng thái tâm bất thiện, 2. Chế ngự các trạng thái tâm bất thiện, 3. Phát triển các trạng thái tâm thiện, 4. Duy trì các trạng thái tâm thiện). Chúng là cốt lõi trong quá trình thanh tịnh. Con đường tâm linh là con đường thanh tịnh, xoay quanh chánh niệm. “Chỉ có một cách để thanh tịnh hóa chúng sanh, chế ngự khổ, giải thoát khỏi đau buồn, ưu não, than van, để bước vào con đường cao thượng, để đạt được Niết-bàn, đó là chánh niệm” (Lời Phật dạy). Sự thanh tịnh hóa không chỉ mang lại tâm an bình cho một cá nhân, góp phần vào hòa bình thế giới, mà còn để giúp ta hành thiền.
Niềm hy vọng rằng người ta có thể ngồi xuống gối thiền, theo dõi hơi thở, rồi tâm trở nên định, là huyễn hoặc. Người ta phải trang bị tâm để hành thiền. Do đó, ta phải thực hành bốn tinh tấn ba-la-mật này, không chỉ trong lúc hành thiền, mà cả trong cuộc sống hàng ngày. Nhờ đó ta sẽ đạt được an tĩnh nội tâm là điều mà ai cũng hoài vọng, nhưng có mấy ai tìm được.
Tinh tấn đầu tiên là không để cho tư tưởng bất thiện chưa phát khởi, phát khởi. Muốn làm được điều này chánh niệm phải thật sắc bén. Một tư tưởng chưa phát khởi, tạo nên những làn sóng đi phía trước. Để biết được rằng chúng không mang đến lợi ích gì, ta cần nhiều chú tâm và công phu tu tập.
Tinh tấn thứ hai, không để một tư tưởng bất thiện đã phát khởi, được duy trì, có thể được thực hiện bởi bất cứ ai có thiện chí, nếu người đó biết là không có ai khác để đổ lỗi ngoài mình. Ý nghĩ bất thiện không phải do ngoại vật kích động, mà hoàn toàn do các uế nhiễm từ bản thân.
Tinh tấn thứ ba là khiến cho tư tưởng thiện, chưa phát khởi, được phát khởi. Có nghĩa là chúng ta phải liên tục quán sát tâm, khuyến khích những ý nghĩ tích cực, thiện lành khi chúng chưa có mặt, ngay cả trong những hoàn cảnh khó xử nhất.
Cuối cùng, tinh tấn thứ tư là làm cho tư tưởng thiện, đã phát khởi, được duy trì. Trong khi hành thiền, điều đó liên quan đến đề mục thiền quán của ta. Nhưng trong cuộc sống hàng ngày, đó là phản ứng của tâm. Nếu ta có chút cảm nhận đối với bản thân, ta có thể cảm thấy bấn loạn bên trong khi tư tưởng bất thiện phát khởi, cảm giác của sự chống đối. Tư tưởng bất thiện luôn ở trong tâm ta trong quá nhiều năm tháng, đến nỗi chúng đã trở thành những phần không thể thiếu trong quá trình tư duy của ta. Cần phải có chánh niệm và quyết tâm ta mới buông bỏ được chúng.
Khi hành thiền chúng ta trở nên ý thức rằng các tư tưởng bất thiện của mình không do ai hay hoàn cảnh bên ngoài tạo ra. Rồi tâm ta thêm vững mạnh để có thể buông những gì ta không cần, giữ lại hoặc thay thế bằng những điều hữu ích. Bốn tinh tấn ba-la-mật này là bốn căn bản của chánh niệm liên quan đến nội dung tư tưởng của ta (niệm Pháp). Nếu tất cả mọi người trên thế giới đều thực hành điều này thì thế giới này đáng sống hơn nhiều.
Trạng thái nội tâm của ta được biểu hiện qua cảm xúc, phát khởi khi có sự xúc chạm của các giác quan. Suy tư cũng là một sự xúc chạm giác quan. Ý nghĩ bất thiện sinh ra các cảm thọ bất thiện, như là khó chịu, bực bội. Thấy, nghe, nếm, ngửi, chạm là năm ngoại giác quan. Tư duy là giác quan bên trong. Tất cả khi xúc chạm, đều tạo ra cảm giác. Kia là mắt và đối tượng của mắt. Khi cả hai đều tốt đẹp, nhãn thức phát sinh và kết quả là cái thấy. Nhãn căn, nhãn trần và nhãn thức tụ hội. Khi ta biết đó là cách bản thể này, mà ta gọi là “tôi”, hoạt động, chúng ta có thể dừng lại những chương trình đã được cài đặt sẵn trong tâm, luôn luôn phản ứng cùng một cung cách. Bởi thế không khó đoán người ta sẽ phản ứng như thế nào đối với một sự kích động quen thuộc nào đó, vì chương trình cài sẵn của họ chưa được thay đổi. Để dừng chương trình đó lại, trước hết ta phải biết có một chương trình, và nó bao gồm những gì.
Thí dụ, với nhĩ căn, là ống tai; rồi có âm thanh. Khi nhĩ thức phát khởi, vì cả căn và trần đều có mặt, ta có cái nghe, và từ cái nghe, cảm xúc phát khởi. Tai chỉ có thể nghe âm thanh, mắt chỉ có thể thấy màu sắc, hình thể. Còn tâm làm tất cả những thêm thắt, giải thích. Mỗi người lại có sự giải thích khác nhau, nên không ai thấy hay nghe bất cứ điều gì giống nhau.
Thí dụ, khi một người nam thấy một phụ nữ, có sắc vóc, tâm anh ta nghĩ, “Cô ta đẹp quá, mình phải lấy cô ta mới được”. Khi tôi nhìn cũng người phụ nữ đó, tôi hoàn toàn không có bất cứ ý nghĩ gì giống như thế. Vậy mà mọi người đều cố gắng để thuyết phục người khác rằng cái họ thấy, nghe là đúng nhất. Nhưng vì thường họ không thể thuyết phục người khác, nên họ bắt đầu bắn, giết người khác.
Suy nghĩ cũng là một xúc chạm của giác quan. Ta có ý căn và tưởng. Tâm thức phát sinh, tiếp xúc với ý nghĩ và tư duy bắt đầu. Từ đó cảm xúc phát khởi. Nếu ta nghĩ mình thương yêu mọi chúng sanh, thì dầu ta có thực sự làm được hay không, chắc chắn ta cũng có một cảm giác ấm áp, dễ chịu phát sinh từ ý nghĩ đó.
Tương tự, nếu ta thấy ghét ai đó, thì ta có cảm giác lạnh lùng, xa cách. Sau đó là phản ứng đối với cảm giác, hoặc là muốn/ước ao hay không muốn/xua đẩy. Khi chú tâm quán sát bản thân, chúng ta có thể trải nghiệm điều đó thật rõ ràng. Chính phản ứng đối với cảm xúc là cửa ngõ để vào tính nhị nguyên và khổ lần nữa. Nhưng đồng thời nó cũng chỉ cho ta cửa ra khỏi mọi phiền não.
Nếu một lần nào đó ta không phản ứng, nhưng biết rõ cảm giác chỉ là cảm giác, nếu ta có thể làm được như thế, thì chánh niệm đã được thiết lập. Ta cũng khởi lòng tin là ta có thể làm được như thế lần nữa, và đang thực sự thực hành thanh tịnh hóa tâm linh. Đó là một sự thuyết phục nội tại quan trọng. Đức Phật dạy rằng, chúng ta cần cả hai, học và hành. Văn (học) giúp ta biết Phật dạy những gì. Nhưng nếu ta không thực hành thì ta giống như con vẹt hay giả đạo đức, nói những điều mình không có chút kinh nghiệm tự chứng nào.
Qua sự thực hành chánh niệm, chúng ta trở nên ý thức đến các cảm xúc phát khởi khi có sự xúc chạm của các giác quan. Cảm xúc lúc nào cũng có mặt, chúng cần được nhận diện để ta có thể chuyển hóa cách sống theo bản năng thành cách sống có chủ đích của một con người. Theo bản năng, ta luôn là người phản ứng. Có chủ đích, ta trở thành người tạo dựng.
Có lẽ bài học quan trọng nhất ta cần học là luôn duy trì chánh niệm trong tất cả mọi hoạt động hàng ngày. Ta có thể thực hành dầu bất cứ ở đâu: tại nhà, ở chợ, nơi làm việc, lúc viết thư, điện thoại, bất cứ làm gì, bất cứ lúc nào. Thiền cho ta động lực, giúp ta tỉnh thức để tháo gỡ mọi chướng ngại ẩn tiềm trong các quan điểm của mình. Ta không thể thấy cái tổng thể, chỉ thấy từng bộ phận. Ta thấy những gì quanh ta, nhưng không thể thấy xa hơn nữa. Với chánh niệm, dường như có cánh cửa mở, khi mọi thứ đều có chỗ nhất định và đều liên kết với nhau. Ta buông bỏ được cảm giác về sự quan trọng của một cái ngã được thổi phồng, và có thể liên kết nhiều hơn với tất cả mọi hiện tướng. Tất cả những thứ này vẫn còn là thứ phẩm, là vấn đề bên lề. Chánh niệm thực sự nghĩa là biết. Khi ta biết và thực sự trải nghiệm, dần dần bản thân ta có thể chứng nghiệm được Tứ diệu đế. Lúc đó công việc của ta hoàn mãn.
Một trong những yếu tố của chánh niệm là khả năng đạt được nhất tâm. Chúng ta không trở nên phóng dật hay mù mờ, mà có thể giữ tâm ở vị trí của nó. Chúng ta phải ý thức rằng những chướng ngại của tâm là một bi kịch của con người, không phải bi kịch của cá nhân nào. Sự hiểu biết này giúp ta chịu đựng một cách nhẫn nại và chuyển hóa dần dần.

Ni sư AYYA KHEMA
Diệu Liên Lý Thu Linh (dịch)




Ni sư Ayya Khema (ảnh) sinh năm 1923, cha mẹ theo đạo Do Thái. Thời thơ ấu bà sống ở Berlin, Đức. Sau một thời gian nghiên cứu, thực hành thiền Phật giáo, Ni sư bắt đầu truyền dạy Thiền khắp thế giới. Năm 1978, Ni sư thành lập tu viện Theravada Wat Buddha Dhamma, nằm trong một khu rừng, gần Sydney, Úc. Ni sư cũng thành lập Trung tâm Nữ Phật tử Quốc tế (International Buddhist Women’s Center) và Đảo Parappuduwa dành cho các Ni (Parappuduwa Nuns Island), tại Tích Lan.
Ni sư thọ Đại giới ở Sri Lanka vào năm 1979 và là một trong những người tiên phong trong việc tranh đấu cho Ni giới.
Ni sư đã viết hơn 20 đầu sách về Thiền và Phật giáo bằng tiếng Anh và tiếng Đức. Quyển nổi tiếng nhất là Being Nobody, Going Nowhere (Việt dịch: Vô ngã, Vô ưu), được giải thưởng Christmas Humphreys Memorial Award. Các sách của Ni sư được thể hiện bằng một sự hiểu biết sâu xa về các công phu tu hành, thành quả của việc hành thiền, là lời kêu gọi mọi người hãy đơn giản hóa cuộc sống và thanh lọc tâm trí bằng cách ứng dụng những lời Phật dạy.
Ni sư Ayya Khema mất năm 1997 do bịnh ung thư.
__________________

(Chuyển ngữ theo Awake & Awareness, là một trong mười bài pháp thoại mà Ni sư Ayya Khema đã giảng trong một khóa tu tại Trung tâm Đào tạo Tăng sĩ Pelmadulla, Tích Lan, năm 1989, và đã được tổng hợp thành sách với tựa đề To be seen here and now. Nguồn: www.vipassana.com/meditation/khema/hereandnow)


Theo: thuvienhoasen

Thứ Năm, 24 tháng 12, 2015

Ngôn Ngữ Kinh Điển





Chân lý ở khắp nơi
Kiếm tìm chi ngôn ngữ
Khi tâm thật thảnh thơi
Chính là Dòng Bất Tử.
***

Nam-mô A-di-đà Phật!
Thưa Thầy, con thành kính đảnh lễ Thầy. Con có một vài điều thắc mắc xin Thầy khai thị, con cám ơn Thầy nhiều ạ.
Theo con được biết thời Phật đã có chữ viết và phương tiện công cụ ghi chép. Đạo Bà La Môn có trước đạo Phật cũng đã ghi chép kinh điển của họ. Vậy tại sao Phật Tổ lại không cho biên soạn kinh điển để truyền lại cho đời sau những lời dạy nguyên thủy và chân thực nhất của Ngài? Đành rằng ở một khía cạnh nào đó ngôn từ, sách vở có thể là vật cản cho việc thực hành nhưng không thể phủ nhận lợi ích của sách vở. Số người không biết Phật Môn khá nhiều nhưng đáng lo sợ hơn là ngay cả những Phật tử cũng không hiểu biết đúng đắn được Ngã Phật dù đã quy y, học đạo. Lý do của điều này một phần vì kinh điển khá rối rắm, khó hiểu, thậm chí có những đoạn những kinh đầy màu sắc mê tín, thần quyền không thể do Phật thuyết hay Tổ Sư nói được mà do người đời sau tự sáng tạo rồi gán cho Phật. Phật là bậc Toàn Giác, Người chắc chắn phải biết trước được ngày hôm nay nhưng sao lại không can thiệp? Con nghĩ rằng với Trí tuệ và thần thông của Phật và các vị Tổ Sư thì biên soạn và duy trì kinh điển hàng bao nhiêu ngàn năm đi chăng nữa không phải là điều khó khăn.

Con xin cám ơn Thầy.

***
                                                   
Đức Phật nói mà dường như không nói, ngôn ngữ chỉ là một phần rất bé nhỏ và hầu như không phải là chính yếu khi đức Phật khai thị Sự Thật. Những nhân tố chính yếu có tác dụng mạnh mẽ khi Ngài chỉ dạy là tâm thái, cử chỉ, nụ cười, ánh mắt, vẻ tự nhiên, năng lượng, trí tuệ, từ bi v.v... biểu hiện nơi Ngài ảnh hưởng trực tiếp đến người cầu đạo đúng với căn cơ, tình huống, không gian, thời gian và thái độ nhận thức, niềm tin, sự chú tâm trọn vẹn trong sáng của người ấy ngay lúc đó, còn ngôn ngữ chỉ là thứ yếu, đôi khi hoàn toàn không cần thiết, vì sự im lặng của đức Phật có tác dụng khai tâm hơn nhiều so với những gì Ngài nói.
Nếu như ngôn ngữ là trọng yếu đến thế thì khi đức Phật đã hoàn toàn giác ngộ Ngài chỉ cần bỏ ra một hai năm tìm một chỗ thanh vắng ngồi viết ra kinh điển rồi dùng thần thông biến ra vô số bộ kinh để phân phát cho chư thiên và nhân loại, đồng thời biến nó thành bất hoại để truyền lại cho muôn đời sau, rồi nhập Niết-bàn cho khoẻ, tội gì phải đi khai thị từng người và cần gì đệ tử phải ghi chép làm chi cho mệt. Cho dù làm thế Ngài vẫn không thể truyền đạt được toàn bộ chân lý Ngài đã giác ngộ qua ngôn từ mà chủ yếu là người được khai thị phải chứng ngộ chân lý ấy ngay nơi chính mình chứ chẳng có điều gì đến với anh ta qua ngôn từ cả.
Người thợ mộc đã rất đúng khi nói với ông vua đang nghiền ngẫm kinh điển rằng bệ hạ chỉ đang nhai lại cặn bã của Thánh nhân thôi. Chính vì thế mà sau khi đức Phật nhập diệt, lời dạy của Ngài đã được ghi lại một cách tóm lược qua trí nhớ, tất nhiên cũng có lợi nhưng đã tạo ra một hiệu ứng nguy hại khôn lường đó là sự phân phái do người sau hiểu nghĩa kinh ít nhiều sai khác, và càng về sau sự phát triển qua chú giải, luận thuyết, cùng các bộ kinh nguỵ tạo đã dần dần biến Đạo Phật thành Tôn giáo, Triết học và Tín ngưỡng. Như vậy không phải ngôn ngữ kinh điển chỉ còn là cặn bã của Thánh nhân đó sao? Chân lý luôn viên mãn nơi thực tại hiện tiền, vì không ai thấy nên Phật mới chỉ ra, ngay đó ai thấy được là xong, quên lời mới đúng.
Khi đạo sĩ Sāriputta hỏi ngài Assaji: “Thầy của ngài dạy gì?”, sao lúc đó ngài Assaji không bảo Sāriputta ngồi xuống nghe ngài đọc lại bài kinh Chuyển Pháp Luân mà chỉ nói một câu quá đơn giản: "Các pháp sinh ra từ một nhân…"? Vì ngài không cần lặp lại ngôn từ Phật nói mà liền chỉ thẳng vào một sự thật, đó là tình trạng luôn sinh tâm tìm cầu sở tri sở đắc của Sāriputta, khiến Sāriputta bừng tỉnh. Sự bừng tỉnh kỳ diệu ấy đưa Sāriputta về với tự tánh chân như (paramattha sacca) ngay nơi thực tại hiện tiền (sandiṭṭhiko dhammo).

Chân lý ở khắp nơi
Kiếm tìm chi ngôn ngữ
Khi tâm thật thảnh thơi
Chính là Dòng Bất Tử.


Thầy Viên Minh

Thư Thầy trò (69)
Tác giả: Viên Minh - Nguyễn Hải Bình

Thứ Tư, 23 tháng 12, 2015

Thì Cành Mai Vẫn Nở

Mỗi lần xuân đến, những tạp chí Phật giáo đây đó thường nô nức nhắc đến bài kệ thơ của Thiền sư Mãn Giác với những bài tụng ca, bình giảng thật vô cùng trân trọng. Thi thoảng ta cũng bắt gặp đâu đó trong các bài bình luận văn học, cành mai kia cũng lọt vào cặp mắt xanh của các vị giáo sư, tiến sĩ với thẩm quyền chuyên môn về kiến thức và nhãn quan của mình. Ai cũng nói đấy là bài thơ thiền. Và, giá trị mỹ học tuyệt vời của nó, dẫu đã một ngàn năm qua đi, vẫn còn mới mẻ, tinh khôi như giọt sương, như ánh nắng long lanh giữa ngàn cây, nội cỏ...

Bài thơ ngắn quá, rất ngắn, lại còn phá cách, phá thể, ngôn từ dị giản - được làm vào lúc "cáo bệnh, dạy học trò" - mà sao ông đã để lại cho văn học sử một tác phẩm bất hủ, vượt thời gian? Bài thơ dường như còn để lại một khoảng trống, một khoảng lặng, một khoảng "ở ngoài lời", khơi gợi một thế giới tâm linh - mà ở đó - thấp thoáng ẩn hiện mảnh trăng thiền lung linh giữa từng con chữ! Thế gian trí năng đa biện, lý trí kiêu ngạo nầy chắc phải còn tốn nhiều giấy mực về bài thơ của ông. Những cái gọi là nghệ thuật, hình tượng, thi pháp, tu từ... với những kiến thức hàn lâm, kinh viện, phạm trù... lại còn cái kính hiển vi ngữ học thời đại nữa... không biết "thiền ý của cổ đức xưa" được giải mãqua mấy ngàn "trùng quan ý niệm"? Chỉ có điều, đối với "thiền" thì "hay" chưa chắc đã"đúng" và "dở" chưa chắc đã "sai"! Và rồi, cái "hay-dở-đúng-sai" kia - đều không quan trọng, cái cốt tử của nó là trao truyền "thiền ý" cho chúng đồ, tiếp sức cho mạng mạch Phật giáo, thêm năng lượng sự sống và niềm tin cho hàng hậu học sa-môn.
Vậy, chúng ta hãy thử mạo muội đi tìm cái "thiền ý" ấy là gì?

- Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai.
(Xuân đi, đóa đóa hoa rơi
Xuân về, đóa đóa hoa tươi thắm màu.)

Hai câu thơ đầu tiên này, mới nghe qua ta tưởng như bình thường, cái bình thường tự nhiên trong sự dịch hóa của vạn hữu. Ngàn xưa vẫn vậy, ngàn sau vẫn vậy, vẫn là định luật tuần hoàn chuyển đổi của đất trời. Nó không xấu hơn, cũng chẳng tốt hơn.
Nhưng, tại sao, từ cảm quan nào, cảm thức nào mà thiền sư thi sĩ lại phá vỡ trật tự thói quen của lập ngôn, lập ngữ? Ai cũng nói "đến rồi đi", "nở rồi tàn", nhưng ở đây thì ngược lại? Cái động từ "khứ" với nghĩa động là "đi tới", nghĩa tĩnh là "qua", "đã qua", có"mật ngữ", "thiền ý" gì không? Rồi "đáo" đi sau; nghĩa động của nó là "đến"; nhưng nghĩa tĩnh của nó là "chu toàn, đầy đủ, viên mãn" - có cho ta một "chớp lóe tâm linh" nào chăng?
Giải mã những điều ấy nếu dùng những hiểu biết thông thường thì e không tới. Mà cho dù kiến thức bác lãm, trí năng thông tuệ thì cũng ở bên này mép rìa của thực tại mà thôi!
Đây là bài thơ có tư tưởng thiền. Thiền sư là một hành giả. Nếu muốn nắm bắt ý nghĩa uyên áo giấu kín sau từng con chữ thì người đọc muốn lãnh hội trọn vẹn cũng phải là một hành giả. Nói cách khác, nó là bài thơ “thiền” thì ta cũng phải có tâm thiền để nhìn ngắm. Ở đây là "nhìn ngắm", là "quán chiếu thực tại". Đừng bắt tôi phải định nghĩa thực tại là gì? Khi ta thấy thực tại là gì thì nó đã chảy trôi rồi. Chỉ có những hành giả tu tập tuệ quán mới ý thức được hơi thở này cùng từng tế bào sự sống trong ta - chúng luôn tương quan với ngoại giới. Tất cả - chúng, đang chảy trôi, đang đi qua, đi qua. Tất cả đều đang chảy trôi, đang đi qua trong từng sát-na tâm niệm cũng như những sát-na dịch hóa của đất trời. Vậy, trong cái tâm nhãn, thiền nhãn ấy, "xuân khứ" là đúng với "hiện quán", đúng với cái nhìn của thiền gia! Và, biết đâu, từ trong sâu thẳm tâm linh, Mãn Giác thiền sư còn gởi gắm tiếng gọi thống thiết muôn đời của Pháp trong Bát-nhã tâm kinh: "Gate, gate... đi qua, đi qua...?!" Tuy nhiên, đấy chỉ là sản phẩm của lý trí đa sự, chất chồng thêm ý niệm mà thôi. Vậy còn "đáo"? Khi "khứ" là đi qua như thế thì "đáo"cũng đâu hẳn là thường ngữ?
Dĩ nhiên rồi. Ngoài định luật tự nhiên - xuân về thì trăm hoa nở - chữ "đáo" đi sau chữ "khứ" chỉ là tạo lập trật tự cho mệnh đề. "Xuân đến" hay "xuân về" đều có thể diễn nghĩa cho động từ "đáo". Nhưng nếu "đáo" có nghĩa động là đến, còn có nghĩa tĩnh là"chu toàn, đầy đủ, viên mãn" thì quả là ta sẽ có một trời ý niệm và liên tưởng thú vị. Có lẽ thiền sư Mãn Giác không "đa sự" như chúng ta chăng?

Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai.
(Việc đời trước mắt qua mau
Tuổi già chợt đến trên đầu thế a?)

Hai câu thơ dịch may lắm thì nói được cái ngữ nghĩa, không dễ gì "tín, đạt, nhã" như cổ nhân yêu cầu. "Sự" nôm na là việc đời, chuyện đời. Động từ "trục", nghĩa động là"đuổi, đuổi theo"; nghĩa tĩnh là "trước sau nối tiếp nhau". Vậy, việc đời nó "đuổi", nó"nối tiếp nhau" chạy qua trước mắt.
Câu sau, vế đối cũng được hiểu như vậy. "Già, cái già, tuổi già" nó theo trên đầu nó đến.
Cả hai câu thơ đều vắng bặt bản ngã, và ngay "pháp" cũng trôi chảy "vô ngã tính".
Phải có cái tuệ quán tỉnh táo mới nhìn ngắm mình và ngoại giới một cách chân xác, rỗng rang và giải thoát như vậy. Ngoài ra, chúng ta còn để ý đến động từ "quá" và "lai";rõ ràng nó nhất quán với hai động từ "khứ" và "đáo" đi trước nó.
Đến đây, cái kiến giải "thiền ý" ấy ta đã có cơ sở hợp lý, logic - do từ cái nhìn thiền quán của tác giả.
Và cũng từ cái "quán chiếu thực tại" ấy, như dồn tụ năng lực, để đẩy hai câu cuối đến một chân trời thâm viễn hơn.

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
(Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai.)

Chữ "xuân" trong hai câu đầu là thường ngữ, ngôn ngữ tục đế, tục thể, ai cũng biết, ai cũng hiểu. Hiểu và biết theo phạm trù trí năng. Nhưng chữ "xuân" trong câu áp cuối, không như vậy. Nó vừa mang sứ mạng thường ngữ, vừa lung linh vầng trăng thiền ngữ - biểu tượng cái đẹp xuất thế. Cái vầng trăng thiền ngữ ấy, cái đẹp ấy không thể dùng trí năng để "hiểu và biết" mà là phải "thấy", cái thấy của tuệ giác, của trực kiến tâm linh.
Mùa xuân thế gian thì đến rồi đi, nở rồi tàn, còn mùa xuân tâm linh không dễ dàng chảy trôi theo định luật tự nhiên của vạn hữu. Người có được mùa xuân tâm linh này không còn bị chi phối bởi vô thường tính, vô ngã tính của cuộc đời. Họ không còn than thở như cụ Tiên Điền: "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ"! Bậc đạt ngộ nhìn ngắm sự chảy trôi, tụ tan, sinh diệt của vạn hữu với cái nhìn "tỉnh táo, trạm nhiên và an định". Họ đã trở về tao ngộ với quê hương, với miền đất an bình muôn thuở. Ở đấy, tại mùa xuân vĩnh cửu ấy, cái "tâm hoa" của họ không còn bị sự vô thường chi phối nữa. Cái "thiền ý"ấy bây giờ đã hiện ra bằng cách phá bỏ ý niệm thông tục: "Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết". Rồi kế đó là dẫn dắt chúng ta đến cánh cửa "huyền mật", mở ra một không gian khác, thời gian khác - khác với không-thời-gian mà mọi người đang sống:

Đình tiền, tạc dạ nhất chi mai
(Đêm qua, sân trước, một cành mai)[1]

Thiền ý bây giờ đã lộ rõ: Đóa mai này không còn là đóa mai của thế gian, đóa mai của nở-tàn thông tục nữa. Nó không còn bị chi phối của định luật sinh diệt, hữu hạn cũng như sự vận hành âm dương của trời đất.
Vậy thì đóa mai ấy nó ở đâu? Nó ở "sân trước" và mới nở "đêm qua". Đến đây, ta đã thấy rõ không gian (sân trước) và thời gian (đêm qua) rất đỗi lạ lùng mà chỉ có tâm thiền mới thấy được. Không-thời-gian ấy mới nở được đóa mai ấy. Và không có gì rõ ràng hơn thế nữa.
Tuy nhiên, vẫn còn "bí hiểm", bí hiểm cho những ai chưa trực kiến giây khắc "đốn ngộ", chưa thực sự bước qua hố thẳm của lý trí nhị nguyên. Nói rõ hơn, là chưa kinh nghiệm tuệ giác bên kia bờ. Chỉ khi nào hội diện, "cước căn điểm địa" miền đất ấy, không thời gian ấy, ta mới hiểu được "tiếng cười dài lạnh buốt thái hư" của thiền sư Không Lộ.
"Đêm qua" - là thời gian, là quá khứ. Nói về sự nhất quán của "ý tứ" thì quá khứ ở đây sẽ logic, chặt chẽ với những cặp thơ đi trước "khứ, đáo", "quá, lai". Ngoài ra, nếu ai có kiến thức tuệ giác kinh viện sẽ hiểu rằng, giây khắc ngộ đạo chỉ xảy ra trong 1 sát-na, rồi nó diệt mất, nhường sát-na kế cho đạo tâm. Ngộ đạo chỉ là giây khắc chớp lóe của tâm linh, sau đó nó trôi về quá khứ. Một sát-na đã là quá khứ. Tuy nhiên, người đạt ngộ tuy có ý niệm về quá khứ, về thời gian - nhưng họ luôn trực thức, luôn "hiện kiến" để sống trong từng hơi thở "không có thời gian", "ở ngoài thời gian". Chính ở cái thời gian"ở ngoài thời gian" ấy - không gian tâm linh mới được thiết lập. Không gian tâm linh thiết lập khá ước lệ: "Trước sân". Tại sao là "trước sân", là "đình tiền" mà không là "bên sân, sau sân" (đình biên, đình hậu)?
Rõ ràng "sân" ấy là mảnh đất tâm. Cái tâm ấy là mảnh đất để cho đóa mai nở. Sát-na tâm "trực ngộ, "hiện kiến" là nó luôn chảy trôi, nó luôn mở ra, ngạc nhiên, đón nhận dung thông các pháp đến từ ngoại giới. Cái tâm ấy phải "không" mới đón nhận được. Do vậy, cái tâm ấy không thể là "bên tâm, sau tâm" - mà phải là cái tâm luôn trực kiến cái hiện tiền; phải là "đình tiền, tâm tiền" mới chính xác.
Rồi đóa mai nở. Đóa mai nở là tuệ giác bừng nở. Tuệ giác bừng nở, nở nơi mảnh đất tâm, không còn bị quy định bởi không-thời-gian tại thế, ước lệ nữa.
Cuối cùng, để thêm tính thuyết phục cho sự giải mã này, ta phải trở lại một ngàn năm trước, để biết rằng Mãn Giác Thiền Sư thuộc dòng thiền Vô Ngôn Thông, đời thứ tám. Và dòng thiền này, thuở bình minh của nó, khi Vô Ngôn Thông truyền pháp cho Cảm Thành để hình thành dòng thiền Kiến Sơ - thì ông đã ngộ được yếu chỉ: "Tâm địa nhược không tuệ nhật tự chiếu" từ Bách Trượng Hoài Hải. Vậy Mãn Giác Thiền Sư là hậu duệ của truyền thừa, sáng tạo câu thơ "Đêm qua, sân trước, một cành mai" để thi vị hóa, tăng giá trị văn học, mỹ học cho câu thiền ngữ xưa bằng những hình tượng nghệ thuật không là điều kỳ diệu sao? Tuệ nhật tự chiếu - đóa mai nở - đấy là mùa xuân vĩnh cửu, là miền đất hứa cho những người con Phật và cả cho những chúng sanh đang lăng xăng xuôi ngược giữa miền cát lầm bụi đỏ này!
Ôi! Một bức thông điệp về mùa xuân đã một ngàn năm qua đi mà dường như vẫn còn cháy sáng ý tưởng, bập bùng giữa tâm thức trần gian. Có ai nghe, ai thấy? Hãy vẫn tịch lặng muôn đời trong hố thẳm vô ngôn?

Thì đóa mai vẫn nở! Bodhisvāha

[1]Nhất chi mai: Nhiều người dịch là một nhành mai, một nhánh mai, một cành mai. Thật ra, ta phải hiểu,” nhất chi mai” còn có nghĩa là “một đóa mai” mới thấy thâm thúy. Một đóa là đủ rồi, cái tối thiểu - một đóa – là đủ đại biểu cho mùa xuân.- như câu thơ của Sư Tề Kỷ đời Đường “Tiền thôn thâm tuyết lý. Tạc dạ sổ chi khai” Đã bị Trịnh Cốc “thầy một chữ” chê chữ sổ (vài), nên sửa lại là “nhất”- Đêm qua nở một bông...(Xem thêm An Chi, sđd, q.3,tr.183.)


Hòa Thượng Giới Đức
Minh Đức Triều Tâm Ảnh

Bản tình ca duy nhất trong Kinh Điển Pali

Mãi đến tận giờ, có lẽ ít người ngờ rằng Hòa thượng Thích Minh Châu ngoài phong cách một học giả có văn phong cổ kính, nghiêm túc và khô khan nhất trong làng Phật giáo Việt Nam, còn là một ngòi bút tân kỳ và thơ mộng đáng bậc thầy của không riêng Phật giáo. Tác phẩm Trước Sự Nô Lệ Của Con Người, xuất bản giữa thập niên 1960 đã chứng minh điều đó. Nhưng vẫn chưa hết, cái duyên ngầm trong chữ nghĩa của Hòa thượng càng kinh người hơn khi ta có dịp so sánh các bài kệ trong bản dịch Kinh Tạng với nguyên tác Pāḷi hay qua bản dịch tiếng Anh.

Từng chữ trong lời Việt của Hòa thượng cứ như một hòn giả sơn tái hiện tận lực cái không khí cổ phong của một thứ ngôn ngữ của ngàn năm trước. Giữ lại cái hồn của một tiếng nói thiên cổ đã khó, trung thành được với ngôn phong ngữ khí của một bậc đại thánh như đức Phật lại càng thiên nan vạn nan. Dĩ nhiên không phải ai cũng làm được việc đó.
Có bản dịch kinh văn cố tự chuốt cái phong vận bác học, đọc xong cứ tưởng đó là lời thuyết giảng của một giáo sư Tây phương vừa mới phát biểu trong một giảng đường đại học ngày hôm qua. Có bản dịch gượng gạo, tàn khuyết như lời lảm nhảm của ông đạo khoai, đạo chuối nào đó. Và dường như chỉ có bản dịch tài hoa và tâm huyết như của Hòa thượng Thích Minh Châu mới đủ khiến người đọc có được cùng lúc hai cảm giác thành kính và mát ruột.
Thành kính vì qua đó cứ như nghe được cả giọng nói Phạm Âm của đức Phật và mát ruột vì độc giả cứ mơ hồ thấy ra một phương trời Cổ Ấn thái bình thạnh trị có bầy nai hiền tung tăng giữa một cánh rừng trụ xứ của các bậc Sa-môn hiền thánh. Từng trang kinh lúc này đã ra một đạo tràng tinh khiết chẳng nặng mùi khói nhang tín ngưỡng của đời mạt pháp.
Nói quẩn quanh chỉ để thưa rằng tôi đã yêu mê lời dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu qua các bộ Kinh Tạng tiếng Việt. Và nếu ngay bây giờ phải trưng dẫn vài ba trong vô số lời dịch trác tuyệt kia, tôi có thể kể ngay ba bài kệ mà tôi đã thuộc nằm lòng. Đó là kệ Nhất Dạ Hiền Giả trong Trung Bộ tập 3, kệ kết thúc bài kinh Ratthapāla trong Trung Bộ II và bản tình ca duy nhất của kinh điển Pāḷi trong bài kinh Đế Thích Sở Vấn của Trường Bộ III (đều là các bản in trước 1975).
Chuyện bắt đầu từ một ngày thiên vương Đế Thích chợt nhận ra mình không còn sống được bao lâu nữa. Ngài cảm thấy bất an và người đầu tiên ngài nghĩ đến chính là đức Phật, lúc đó đang tại thế. Thiên vương xuống trần hầu Phật và cùng đi với ngài là một vị tiên ngoan đồng tên Pañcasikhā. Gọi là ngoan đồng vì vị này có ngoại hình như một tiên đồng kháu khỉnh, trên đầu có năm chỏm tóc đào, lý do của ngoại hiệu Pañcasikhā. Sớ ghi dưới thời Phật Ca-diếp vị này từng là một cậu bé chăn bò có lòng kính tin Tam Bảo, độ trì chúng tăng.
Nhờ công đức đó mà cậu bé kia được sanh thiên, nhưng vẫn chưa bỏ tính ham chơi. Tập khí trẻ con đã tạo cho vị tiên cái nhân dáng đúng như ý thích. Điều trớ trêu là lòng phàm trước sau gì cũng vướng lụy, chàng đã trộm yêu một tiên nữ tên Suriyavacasā, con gái của một đại lực tiên ông tên Timbaru, người chưởng quản làng ca vũ nhạc kịch của Đạo Lợi Thiên. Oái oăm thay, người trong mộng của Suriyavacasā không phải là chàng Pañcasikhā giống hệt trẻ con. Nàng đã phải lòng cậu con trai của tiên ông Mātali, người đánh xe cho thiên vương Đế Thích.
Đau đớn quá, Pañcasikhā âm thầm một cõi đi về và sáng tác một nhạc khúc để hát cho riêng mình nghe. Do căn khí tu hành nhiều kiếp, những chồi non Bồ-đề cứ vô tình nảy lộc trong từng lời hát của chàng. Pañcasikhā từng học đạo, nên trong nỗi riêng xé lòng vẫn không quên được lối về bến giác, dù rất mờ nhạt và liên tục bị chàng phung phá với những tục niệm đan xen:

“Như gió cho kẻ mệt
Như nước cho kẻ khát
Nàng là tình của ta
Như pháp với Ứng Cúng”.


Đem cái tình của mình so sánh với tất cả những gì là thiết yếu sinh tử của nhân gian, rồi thì cả gan so sánh với cả đạo nghiệp giải thoát của một vị La-Hán đã thoát vòng tục lụy – thì quả là độc đáo và “thấm thía tương chao” lắm thay!
Tôi trộm nghĩ đến cả Hòa thượng dịch giả khả kính của chúng ta, có lẽ cũng phải se lòng khi dịch đến chỗ này của bài kinh Đế Thích Sở Vấn. Rõ ràng, Hòa thượng đã ít nhiều đem cái tình riêng mà cùng tham dự vào nguyên tác, để chia sẻ nỗi đau thất tình của người bạn đồng tu lãng mạn đó. Dĩ nhiên Pañcasikhā cũng là bạn tu của tất cả chúng ta.
Tôi chưa hề có ý học thuộc bài hát này của Pañcasikhā, nhưng chuyện đời thiệt lạ: Hữu ý bồi hoa, hoa bất phát. Vô tâm tháp liễu, liễu thành âm. Cố tình vun vén thì cây tàn hoa lụi, nhưng hạt ném bên đường nhiều khi lại ra cây xanh tốt xum xuê.

“Thiện nữ! Ta van nàng
ôi hiền nữ suối tóc
ái dục ta có bao
nhưng nay đã tăng bội
như đồ chúng La-hán

mọi công đức ta làm
dâng lên bậc La-hán
ôi kiều nữ toàn thiện
nàng là quả cho ta…”


Bài hát đó không ít lần đã như câu thần chú giúp tôi vùng thoát cái mặc cảm phàm tình chất ngất của mình. Ừ thì tục lụy thì đâu đã sao, gì cũng chỉ là hoa bướm trên đường vạn lý cả thôi. Cái cốt lõi là phút cuối quay đầu thấy bờ, phóng hạ đồ đao lập địa thành Phật. Mà nói cho cùng, đâu phải ai đọc bài hát đó cũng phải yếu đuối điên mê. Xin đọc kỹ một lần đi. Thương lắm. Chàng nhận mình là một Phật tử, biết vui khi nhìn ngắm thánh chúng của đức Phật ngày một đông đảo. Nhưng yêu nàng quá, chàng tạm thời chỉ mong bao kiếp tu hành của mình hãy giúp mình gần được người đó.
Vậy mà cũng chẳng xong. Quả Bồ-đề cao vợi là thế mà công đức hữu lậu còn dẫn tới được, thì sá gì một phút ghé bến trầm luân chứ. Con xin phát thệ chân thành, rong chơi đôi hôm rồi cũng sẽ quay về với Phật. Sinh tử ai lại không sợ, nhưng đột ngột dứt áo ra đi lúc này thì kể cũng có phần khe khắt. Mai mốt đã Niết-bàn thì làm sao có buổi quay về lần nữa.
Pañcasikhā làm riêng bài hát này cho mình, nhưng thật ly kỳ khi Thế Tôn lại là người đầu tiên nghe chàng độc tấu bài hát này. Lúc đó ngài vừa thành Phật không bao lâu. Thì ra chuyện thất tình của Pañcasikhā đã có từ ngày ấy. Chàng như đứa bé, chơi thua bạn thì chạy về mách mẹ. Nhiều năm sau, tôi nghĩ lời hát đã được Pañcasikhā thay đổi ít nhiều. Chàng xuống trần học đạo để tìm quên và dù chưa quên được, nhưng lời kinh đã đi vào lời hát như một chuẩn bị cho chủng tử giải thoát ngày sau.
Đêm nay, theo chân thiên vương Đế Thích xuống trần hầu Phật lần nữa, Pañcasikhā lại ôm đàn hát lại nhạc khúc đó như một cách cúng dường. Lễ phẩm chàng có được lúc này cũng chỉ là một nỗi đau thất tình được phổ vào bài hát đem dâng lên bậc Điều Ngự, người dạy chúng sinh giải thoát tình trần. Có lẽ chỉ có phàm phu mới nghĩ ra được kiểu cúng dường nghịch thiên bội địa này thôi.
Vậy mà Thế Tôn cũng lặng lẽ ngồi nghe với một niềm bi mẫn vô bờ, như người mẹ hiền kiên nhẫn ngồi dỗ đứa bé khóc nhè. Với đôi mắt nhìn khắp muôn cõi và tấm lòng nghĩ thấu ngàn đời, đức Phật đã lắng nghe rồi ngỏ lời khen Pañcasikhā bằng một câu hỏi: Ngươi đã học ở đâu lời hát pha trộn cả hai thứ giải thoát và tục lụy đó? Một câu hỏi hàm ý cùng lúc nhiều vấn đề quan trọng. Giải thoát và tục lụy là hai cực đối lập, không thể song hành. Một câu hỏi chứa đựng cả bốn Thánh Đế và gợi ý cả Giáo Lý Duyên Khởi trùng điệp.
Pañcasikhā đã thưa lại với Thế Tôn chuyện lòng tan nát của mình, và nhắc lại chuyện cũ dưới gốc Bồ-đề ngày trước khi chàng lần đầu hầu Phật và hát cúng dường Ngài nhạc khúc não lòng đó.
Kinh nói sau khi vào hầu Phật, thiên vương Đế Thích được nghe Pháp và chứng quả Dự Lưu. Ngay lúc đó tuổi trời đã mãn, thiên vương mạng chung trước mặt Thế Tôn và lập tức tái sanh trở lại với ngôi vị thiên vương của mình. Sự việc chớp nhoáng này chỉ có đức Phật và thiên vương biết được mà thôi.




Để cảm tạ Pañcasikhā, thiên vương Đế Thích hứa với chàng là sẽ tìm cách dàn xếp để Pañcasikhā cưới được Suriyavacasā trong giải pháp thỏa đáng nhất.
Lời hứa của thiên vương đã khép lại một chuyện tình thơ mộng bậc nhất của kinh điển Phật giáo, và chúng ta có lẽ cũng nên cảm ơn cô nàng Suriyavacasā đã là nguồn cảm hứng cho một bản tình ca quán tuyệt cổ kim, có âm vang xông thấu đôi miền tiên tục và đã từng là một lễ phẩm cúng dường một bậc đại thánh như đức Phật. Và vẫn chưa hết, bản tình ca đó của Pañcasikhā còn có tác dụng của một lời khuyến tu thú vị: Có rong chơi đến bao xa xin cũng nhớ quay về. Vì tục lụy muôn đời chỉ là một cội cây sống bằng nước mắt kẻ trầm luân…
Ô hô! Pañcasikhā tiên ông thượng hưởng!


Toại Khanh

Thứ Ba, 22 tháng 12, 2015

Sự thấy biết trong thiền Minh Sát

...Hãy buông hết mọi ý đồ của bản ngã đi và để cho thân tâm được nghỉ ngơi vô sự. Khi tâm nghỉ ngơi vô sự thì tánh biết sẽ tự chiếu soi trong chánh niệm tỉnh giác một cách tự nhiên. Lúc đó chỉ thấy pháp đến đi như thế nào thì biết như vậy, không thêm bớt, không phản ứng, không cố nắm giữ hay loại bỏ gì cả. Đó chính lá thiền Minh Sát Tuệ chứ không phải đem bản ngã ra nỗ lực tìm kiếm điều gì. Hãy nhớ thiền Minh Sát là thấy ra sự thật chứ không phải đạt được điều gì...




Sự thấy biết trong thiền Minh Sát

Kính Bạch Thầy,
Con hiện vẫn quan sát mọi hành động cử chỉ rõ biết bản thân đang làm gì: đi, đứng, lái xe, ăn cơm..., nghĩ gì con cũng biết con đang nghĩ, không bị suy nghĩ cuốn đi, đặc biệt là con thích ngồi xuống quan sát thân, thọ, tâm của con, cảm giác như đang khám phá thêm được nhiều điều thú vị. Con có được nghe Thầy hướng dẫn quan sát tiếp sự sinh diệt, con có quan sát nhưng con không cảm nhận được sự sinh diệt, con cảm thấy cứ bình bình không có nhiều sự biến động trong tâm con để thấy sinh diệt. Kể cả khi con quan sát sự thở, con cũng không cảm nhận điều gì là sinh ra là diệt đi và ngược lại, con chỉ thấy thân con "nhúc nhích" thế nào khi thở. Con đang bị kẹt và con tự cáu gắt bản thân, nhiều khi muốn khóc vì thấy mình không làm được, dẫn đến càng sai lầm hơn. Con nghĩ nếu con buông xuống không cố gắng quan sát sự sinh diệt nữa thì bao giờ con mới khai thêm những tuệ khác, còn cố gắng quá thì đi ngược lại với Thiền Tuệ, nên giờ con bối rối. Mong Thầy cho con lời khuyên, chỉ ra để con tiến bộ hơn trên đường tu tập đến giác ngộ ạ. 
Con cám ơn Thầy, 

Trả lời:

- Thấy thân sinh diệt tức thấy sự biến đổi của các trạng thái hoặc tư thế của thân như thấy bước chân này chấm dứt bước chân kia kế tục, cứ thế không còn thấy "ta" đi mà chỉ thấy sự sinh diêt trong động thái đi. Cũng vậy, đi diệt thì đứng sinh, đứng diệt thì ngồi sinh, ngồi diệt thì nằm sinh v.v... hoặc hít vô diệt thở ra sinh, thở ra diệt hít vô sinh v.v... 
- Thấy thọ sinh diệt là thấy sự biến đổi của các cảm giác như thấy cảm giác đau sinh rồi từ từ lắng dịu và biến mất, tiếp đó cảm giác xả hoặc lạc sinh lên và cũng từ từ diệt đi v.v..., cũng vậy, thấy những cảm xúc hỷ, ưu sinh diệt, cứ thế không còn thấy "ta" khổ, "ta" lạc mà chỉ thấy thọ khổ, thọ lạc sinh diệt mà thôi. 
- Thấy tâm sinh diệt càng rõ ràng hơn như vừa thấy đó đã chuyển qua nghe, vừa nghe tiếng này đã chuyển qua nghe tiếng khác, cũng vậy ngửi, nếm, xúc chạm và nhất là biết càng biến đổi sinh diệt nhanh hơn như khi hiểu một câu nói là hiểu hết lời này qua lời khác, như vậy không phải "ta" biết mà chỉ có cái biết sinh diệt liên tục đó sao? 
Không cần cố gắng tìm kiếm sự sinh diệt theo một khái niệm định sẵn nào để rồi tìm không ra. Sự sinh diệt luôn xuất hiện trong mọi pháp tướng nên càng không cố gắng dụng công tìm kiếm càng thấy dễ dàng hơn. Thấy thật hồn nhiên trong sáng các pháp đến đi tự nhiên thì thực tướng sinh diệt sẽ tự xuất hiện. Đó chính là sự thấy biết trong thiền Minh Sát. 


Thiền Minh Sát là thấy ra sự thật chứ không phải đạt được điều gì

 Kính bạch Thầy, Con nghe lời Thầy không ngồi thiền mỗi ngày nữa, nhưng sao con thấy khó chịu quá thưa Thầy. Một ngày không tu con thấy mình có lỗi, lỗi thọ của đàn-na, lỗi với mọi người xung quanh. Con tự hổ thẹn với chính mình quá. Đúng như Thầy nói, cái bệnh tu và cái bệnh không tu. Thời gian qua con trông coi thư viện của chùa. Nơi đây là chỗ hàng ngày con học tập và hành thiền. Song, con viết một tờ thư pháp để trước mặt "PHẢI ĐẮC ĐẠO", "SANH TỬ SỰ ĐẠI, VÔ THƯỜNG TẤN TỐC" nhằm chỉ để sách tấn mình mà thôi và mỗi ngày con hành thiền 2 thời miên mật, đúng 1g45 mỗi khuya con ngồi đến 3g15 ra công phu khuya cùng chúng và 5g sáng ngồi lần nữa (ban ngày đi học, chiều về tụng Tịnh độ) con rất gầy ốm, nhưng con nghĩ phải chịu khó, chịu khổ để tu tập chứ không để thời gian qua mau. Thậm chí con tập được ngày ăn một bữa ngọ. Nhưng sau khi gặp Thầy, con mới biết như thế là sai, nhưng ngưng ngồi thiền lại, trạng thái tâm con khó chịu quá. Nó như bị thiếu cái gì. Thầy ơi, Con phải làm sao?
Trả lời: Con tu theo Bắc Tông hẳn biết nơi con pháp vốn đã tự đầy đủ nên Tổ Huệ Năng sau khi ngộ đã nói: "Hà kỳ tự tánh bổn tự cụ túc", Kinh Bát-Nhã cũng nói: "Bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm", chỉ tại con mong cầu mà thấy thiếu thôi. Cốt lõi của Phật Pháp là Không, Vô Tướng, Vô Nguyện nghĩa là vô vi vô tác nên Tổ Huệ Năng nói: "Tâm bình hà lao trì giới, hạnh trực hà dụng tham thiền". và "Trụ tâm quán tịnh là bệnh chứ không phải thiền". Con cũng đã biết như vậy là "lấy đá đè cỏ", "mài gạch thành gương", vậy tại sao con phải ngồi thiền để mong cầu một trạng thái an lạc nào? Không phải mọi trạng thái đều "vô thường tấn tốc" sao, vậy con mong đạt được trạng thái gì?
Thiền Minh Sát Tuệ Nguyên Thủy lại càng rõ hơn nữa. Cứ ngay nơi thân tâm con mà chánh niệm tỉnh giác, đừng chạy theo ý đồ của bản ngã, chỉ sống tùy duyên thuận pháp vô ngã vị tha là con đã xứng đáng thọ dụng của đàn-na tín thí rồi sao con lại hổ thẹn hay mặc cảm gì nữa. Một hôm có người hỏi đức Phật rằng nếu chỉ chánh niệm tỉnh giác thôi thì ít quá. Phật dạy chớ có nói vậy, chánh niệm tỉnh giác là đã làm rất nhiều. Con ngồi thiền một ngày nhiều lắm được bảy tám tiếng đồng hồ, mà chỉ ngồi lo cho sự an ổn của mình, còn nếu con hàng ngày vừa phục vụ đạo pháp, tha nhân vừa chánh niệm tỉnh giác, thì trừ giờ ngủ, con luôn phát huy phước tuệ đầy đủ như vậy không phải là nhiều hơn chỉ lo giải thoát cho mình sao?
Thôi được, nếu con muốn ngồi thiền cũng được, nhưng khi ngồi hãy buông hết mọi ý đồ của bản ngã đi và để cho thân tâm được nghỉ ngơi vô sự. Khi tâm nghỉ ngơi vô sự thì tánh biết sẽ tự chiếu soi trong chánh niệm tỉnh giác một cách tự nhiên. Lúc đó chỉ thấy pháp đến đi như thế nào thì biết như vậy, không thêm bớt, không phản ứng, không cố nắm giữ hay loại bỏ gì cả. Đó chính lá thiền Minh Sát Tuệ chứ không phải đem bản ngã ra nỗ lực tìm kiếm điều gì. Hãy nhớ thiền Minh Sát là thấy ra sự thật chứ không phải đạt được điều gì.



Thấy biết mọi sự xảy ra trong ngoài một cách tự nhiên


Mô Phật, kính bạch thầy cho con hỏi:
1. Khi con nhìn một đối tượng con có nên nhìn hết tướng chung, tướng riêng của đối tượng đó hay không? hay chỉ nhìn thoáng qua để biết được tâm của mình đang muốn gì?
2. Khi con đang chú tâm làm một việc gì, những cảm giác, âm thanh, mắt thấy... con có nên biết và quan sát đến nó hay không?
Mong thầy từ bi chỉ dạy cho con.


Trả lời:

1. Tùy theo thái độ nhìn của con với mục đích gì, nhìn để thấy thể tánh hay để thấy tướng dụng của đối tượng. Nếu để thấy tướng dụng thì đương nhiên con phải để ý đến tướng chung tướng riêng của nó. Còn để thấy thực tánh thì không cần để ý tướng chung tướng riêng mà chỉ cần nhìn với tâm sáng suốt, định tĩnh, trong lành là được.
2. Khi chú tâm làm việc gì thì con chỉ nên thận trọng quan sát thân tâm con trong quan hệ với công việc ấy thôi chứ không nên bị phân tâm bởi những sự kiện bên ngoài. Tuy nhiên cũng không cần phải cắt hẳn mọi thứ xung quanh mà con vẫn có thể biết mọi sự xảy ra trong ngoài một cách tự nhiên.

Thứ Ba, 15 tháng 12, 2015

Tấm gương thiền

Phần 1- Lời dẫn nhập:

Những người học Phật thời xưa không nói một câu nào không phải lời của Phật, cũng không làm một hành động nào không phải là hành động của Phật. Họ trân quý những giáo lý thiêng liêng trong kinh sách để lại với hết lòng thành kính.
Những người học Phật ngày nay giảng nói thao thao bất tuyệt và đề cao quá đáng những bài viết

của các học giả thế tục và văn chương cổ điển Trung Hoa. Thậm chí họ còn viết lại những câu thơ trên giấy mầu trang hoàng bằng gấm lộng lẫy. Họ mê say loại văn chương này và xem đó như những bảo vật quý giá nhất. Kho báu của người học đạo thời xưa và thời nay thật khác xa vời vợi!
Tuy bất tài, tôi cũng rất trân trọng những kinh sách ngày xưa, và xem những lời trong các đại tạng kinh như kho tàng quý báu nhất của tôi. Tuy nhiên, những lời kinh này thật không kể xiết, và biển kinh sách cũng thật là quá bao la.
Tôi sợ rằng những người học đạo sau này sẽ phải khổ công một cách không cần thiết khi tìm cách xuyên qua những rừng rậm chữ nghĩa để hái được những hoa trái tốt lành thực sự đem lại lợi ích cho họ.
Vì vậy, để giúp cho kẻ hậu thế tránh được những khổ nhọc vô ích, tôi đã chọn lọc và gom lại những tinh yếu của một số bài giảng có tính cách căn bản và gợi tín tâm cho sự tu hành nhiều nhất.
Những bài viết này thật ít ỏi, lại có vẻ giản dị quá khiến có thể gây ngộ nhận, nhưng nghĩa lý thật là toàn vẹn. Nếu bạn xem đó như là kim chỉ nam để hướng theo và theo đuổi sự tu tập để đạt đến cứu cánh đạo nhiệm mầu, bạn sẽ thấy Phật hiện ra trên từng giòng chữ. Vì thế, bạn nhất định phải nghiền ngẫm quyển sách này.
Nhưng dù có nghiên cứu kinh điển chữ nghĩa đến thế nào, cũng không gì có thể sánh bằng đạt được cái "vô ngôn tự" không thể nghĩ bàn. Đó là cả một kho tàng quý báu vô hình vô tướng. Tôi không định là sẽ không bao giờ dùng đến nó, nhưng đã định là, trong từng giây từng phút, sẽ chờ một cơ duyên đặc biệt nào đến cho nó tự hiển thị.

Phần 2

Có ba điều cốt yếu trong sự tu tập Thiền. Thứ nhất là Tín Tâm. Thứ nhì là Dũng Khí. Thứ ba là Đại Nghi. Nếu thiếu một trong ba điều này, sẽ giống như một cái lư đồng ba chân mà thiếu mất một chân - sẽ chẳng được tích sự gì.
Cách tu thiền cho đúng giống như lên giây đàn vậy: phải điều chỉnh để không căng quá và không trùng quá, như vậy mới cho tiếng hay được. Nếu công phu quá độ sẽ bị vướng mắc vào đủ thứ, còn nếu buông lung giải đãi thì chỉ chìm đắm sâu hơn trong vô minh mà thôi. Tốt nhất là tu tập Thiền với một tâm an định sáng suốt - thường tỉnh giác và bất động.
Có những người chỉ học qua sách vở và ngôn từ, khi họ mở lời nói thì ra vẻ như đã đạt được giác ngộ. Tuy nhiên, khi thực sự đối mặt với những tình thế hàng ngày, họ bị xung động đến nỗi không biết phải làm gì. Điều đó chỉ rõ sự khác biệt giữa tính chất của lời nói và tính chất của việc làm.
Nếu bạn muốn xa lìa sinh tử, bạn phải kiên cố giữ "nhất niệm" và bừng vỡ chỉ trong một thoáng chớp (đốn ngộ). Chỉ tới đó bạn mới thực sự giải thoát khỏi sinh tử được.
Tuy nhiên, dù bạn đã thấy được thực tướng, ngay cả chỉ là của một niệm nhỏ nhoi, bạn vẫn cần có một minh sư để ấn chứng xem bạn có thực có được chánh kiến hay không.
Tôi chỉ hi vọng là mọi người học Đạo hãy tin tưởng ở nơi con người thực sự của mình. Bạn không nên mất tự tin, cũng không nên kiêu mạn.
Trọng điểm của sự tu tập chỉ là buông xả những vọng niệm thế gian. Kinh nghiệm chứng ngộ của chư Phật, chư hiền thánh không có gì khác hơn là như vậy.
Cố gắng dẹp bỏ tâm chúng sanh thực sự là không cần thiết. Và tìm cầu điều gì như là "Pháp đúng thực" lại cũng là một sai lầm lớn lao. Chỉ cần nỗ lực giữ cho con người thực sự của mình không bị ô nhiễm: tất cả chỉ là thế mà thôi.
Tập cắt đứt tất cả mọi ô nhiễm là sự tu tập có tính cách đối đãi, trong khi chỉ cần giữ tâm ở nơi không khởi ô nhiễm được gọi là "Niết Bàn".
Muốn cho tâm không, chỉ cần quán chiếu thật sâu xa vào đó. Lúc đó bạn sẽ thực sự tin tưởng được rằng, trong thực tế, sự biến hiện của chỉ một niệm thôi cũng là huyễn ảo. Thực ra, chẳng có "vật" gì đã thực sự hiện ra bao giờ cả.*

(*Câu kệ của Lục Tổ: Xưa nay không một vật, Chỗ nào bám bụi trần.")

Nếu bạn biết rằng niệm khởi tự nó là huyễn ảo, đó là bạn đã được giải thoát. Cần gì phải dùng phương tiện khéo nào nữa? Ra khỏi mọi mê lầm, tức là bạn đã giác ngộ, không cần phải qua một tiến trình tiệm tu nào nữa.
Chúng sinh thường đã ở trong sự tịch tĩnh hoàn toàn, không có động thái nào, không sinh cũng không diệt. Điều đó đôi khi được gọi là "vô sanh". Nhưng họ lập nên sự thấy biết lầm lẫn "sinh" và "tử" , "Niết Bàn/ cứu độ", tin rằng chúng là thật, giống như thấy hoa đốm trên hư không vậy.
Đôi khi chúng ta nói rằng "Bồ Tát cứu độ chúng sanh bằng cách tiếp dẫn họ đến Niết Bàn". Tuy nhiên, trên thực tế, chẳng có chúng sanh nào đã đạt đến Niết Bàn nào cả.
Việc đạt được đốn ngộ là hoàn toàn khả thi, tuy nhiên trên thực tế, những tập khí huân tập nơi tâm không thể nào tiêu trừ ngay được.
Một trí tuệ sáng tỏ và thanh tịnh hành hoạt không chướng ngại là do sự tu thiền đạt đến chánh định mà ra. Khi tâm ở trong định, sẽ thấy rõ ràng sự biến hiện của tất cả các pháp trên thế giới này.
Nếu đang gặp phải những tình thế khác nhau mà tâm bạn không khởi niệm, thì đó gọi là ở trong "vô sanh". Tính của vô sanh là "trước niệm khởi", và trước niệm khởi tự đó là Niết Bàn, hay là cứu độ vậy.
Một số người tưởng chúng ta tu tập là để đạt đến Niết Bàn. Nhưng đó là sai lầm. Tâm bản lai là tĩnh lặng và hoàn toàn trong sáng, chỉ là như thế (Như Thị). Đạt được sự nhận thức như thế mới thực là Niết Bàn và cứu độ. Vì thế kinh đã dạy rằng, "Tất cả các pháp bản lai đã có sẵn Niết Bàn".

So Sahn (1520-1604)
Trích từ Tấm Gương Thiền - Yếu chỉ truyền thống về pháp tu Phật
( The mirror of Zen - The Classic Guide to Buddhist Practice 200)

Ngọc Bảo phóng dịch từ Daily Zen Journal


Nguồn :ngocbao.com

ĐỨC PHẬT SỬ DỤNG THẦN THÔNG NHƯ THẾ NÀO?

Thần thông của đức Phật là một trong những đề tài thu hút người viết, lôi cuốn người đọc. Trước nay, đã có nhiều bài viết về thần thông của đức Phật, nhưng tất cả chỉ bàn chung chung đi kèm với một số đoạn trích dẫn dài về những lần Phật thể hiện thần thông, đồng thời nhắc lại quan điểm của đức Phật rằng Ngài chỉ chú trọng đến giáo hóa thần thông. Thế nhưng, khi đọc kỹ một số kinh có nhắc đến các loại thần thông, người viết nhận ra còn nhiều điều thú vị chưa được trình bày một cách có hệ thống để thấy rõ quan điểm tuyệt vời của đức Phật đối với các loại thần thông. cách sử dụng thần thông của đức Phật trong quá trình hoằng hóa của Ngài sẽ được bàn sâu hơn trong bài viết này.

Đức Phật thành tựu các thần thông
Qua những gì được ghi lại trong kinh điển, chúng ta hiểu rằng, đức Phật cũng như các đệ tử Ngài có khả năng thành tựu các loại thần thông. Ba loại thần thông được đức Phật nhắc đến nhiều trong các bài giảng pháp của Ngài là thần thông biến hóa, thần thông tha tâm (còn gọi là thần thông ký thuyết trong một số bài kinh như kinh số 140: kinh Moranivapā, Tăng chi bộ kinh, chương III, phẩm XIV) và thần thông giáo hóa (Trường bộ kinh, kinh số 3: Ambattha, kinh số 11: Kevaddha; Trung bộ kinh số 12: Đại kinh sư tử hống; Tăng chi bộ kinh, chương Ba pháp, phẩm VI, kinh 60; Tăng chi bộ kinh, chương Mười một pháp, phẩm I, kinh số 11). Ngài giải thích cụ thể hơn ba loại thần thông này như sau:
1. Biến hóa thần thông: có khả năng thi triển các phép thuật kỳ lạ khác người. Đó là khi một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân, hiện hình, biến hình, đi ngang qua vách, qua tường, qua núi như đi ngang hư không, độn thổ, trồi lên ngang qua đất liền như ở trong nước, đi trên nước như đi trên đất liền, ngồi kiết già, đi trên hư không như con chim, với bàn tay, chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy, có thể tự thân bay đến cõi Phạm thiên.
Với sự thi triển khả năng đặc biệt khác thường như vậy, với số đông dân chúng, biến hóa thần thông được đón nhận nhiều nhất.Người đắm trong lạc thú trần gian rất tò mò và ngưỡng mộ những biểu hiện lạ lẫm, khác thường, xem sự thi triển thần thông như những trò tiêu khiển của thế gian, không hơn không kém.
2. Tha tâm thần thông là thấu hiểu và nói lên được tâm niệm của người khác, rằng “như vậy là ý của ông, như thế này là ý của ông, như thế này là tâm của ông”. Theo mô tả trong kinh, khả năng đặc biệt này đến bằng nhiều cách: có thể do người ấy có khả năng nhìn tướng người để biết trong tâm người khác mà nói, có thể người đó có khả năng đặc biệt có thể nghe tiếng loài người, phi nhân và chư thiên mách bảo mà nói, có thể nghe tiếng loài người, phi nhân và chư thiên mách bảo rồi suy tư mà nói, có thể do vị ấy thực hành pháp, thành tựu định không tầm không tứ, với tâm (của mình) rõ biết tâm của người khác tùy theo hành ý của vị tôn giả này hướng đến chỗ nào, thời tâm của vị này lập tức suy tầm đến chỗ ấy, nhờ đó mà biết và nói. Tha tâm thần thông khiến người khác nể phục, ngưỡng mộ vì như thể người ấy đi từ trong tâm mình ra. Thế nhưng, có những nguy hiểm khó lường với loại thần thông này so với lợi ích rất giới hạn mà phép thần thông này có thể đem lại.
3. Giáo hóa thần thông là dùng những lời giáo pháp khéo léo khuyến hóa người khác bỏ đi những nghiệp xấu ác về suy nghĩ, lời nói và hành động mà quay về con đường thiện lành để được an vui, hạnh phúc trong cuộc sống. Kinh điển mô tả giáo hóa thần thông là dùng lời nói đúng pháp nhắc nhở như sau: “Hãy suy nghĩ như thế này, chớ suy nghĩ như vậy! Hãy tác ý như vậy, chớ tác ý như vậy! Hãy từ bỏ cái này! Hãy đạt đến cái này và an trú!” (Tăng chi bộ kinh, chương III, phẩm VI, kinh số 60). Có thể nói, giáo hóa thần thông là khả năng đặc biệt có thể giúp một người từ bỏ ác về hành động, lời nói và ý nghĩ, thay vào đó, nuôi dưỡng tâm thiện lành qua ba phương diện thân, miệng và ý, biết cách chọn con đường hướng thượng đưa đến hạnh phúc chân thật, bền vững trong hiện tại và tương lai. Giáo hóa thần thông là dùng năng lực của giáo dục giúp đối tượng chuyển hóa thân tâm theo chiều hướng tích cực, làm thay đổi ngoạn mục chính con người ấy như thể có phép màu.
Thái độ của Đức Phật đối với các loại thần thông
Tâm lý thường tình của con người là tò mò, ưa những điều lạ lùng, kỳ dị và khác thường vì họ đã quá quen với cuộc sống bình thường, nên những gì khác lạ với những hoạt động bình thường của con người đều có sức hấp dẫn. Do đó, hầu hết dân chúng đều ngưỡng mộ những người có khả năng thi triển biến hóa thần thông vì cho đó là những khả năng đặc biệt từ những người siêu xuất. Những phép màu như ảo hóa, huyễn hoặc ấy có sức lôi cuốn mãnh liệt khó cưỡng. Không chỉ người cư sĩ tại gia bị cuốn vào trong các biến hóa thần thông này, mà đến cả người xuất gia thời Phật, như tỳ kheo Sunakkhatta cũng có thái độ bất mãn, phẫn nộ, từ bỏ đời sống xuất gia, trở lui về đời sống thế tục chỉ vì ông chỉ trích Phật không có thần thông biến hóa (Đại kinh sư tử hống, Trung bộ kinh, số 12). Thật ra, đức Phật thành tựu đầy đủ tất cả các loại thần thông nhưng Ngài rất hạn chế trong việc sử dụng chúng như là một cách biểu diễn năng lực đặc biệt nhằm đáp ứng tâm lý tò mò, hiếu kỳ với điều lạ lùng, khác người của số đông dân chúng, vì Ngài thấy điều này không đem lại lợi ích thiết thực nào cả.
Trong những tình huống cần thiết, đức Phật vẫn sử dụng thần thông, nhưng Ngài sử dụng rất hạn chế và dè dặt. Trong Tăng chi bộ kinh, chương Hai pháp, phẩm I, ghi lại rằng, đức Phật, như người lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại bàn tay đang duỗi ra, cũng vậy, biến mất ở Thắng Lâm, hiện ra ở Đông viên, theo lời yêu cầu của chư Thiên. Một lần khác, đức Phật trên con đường đến Kusinara, đi đến sông Hằng. Lúc bấy giờ sông Hằng tràn ngập nước đến bờ bên kia. Có người đang đi tìm thuyền, có người đang đi tìm phao, có người cột bè để đi qua bờ bên kia. Thế Tôn mau lẹ như người lực sĩ co duỗi cánh tay, biến mất từ bờ bên này và hiện ra bờ bên kia với chúng Tỳ kheo (Trường Bộ Kinh số 16: Kinh Đại bát niết bàn). Trong những trường hợp cần sự có mặt kịp thời của đức Phật tại một nơi cách xa mà với cách di chuyển bình thường Ngài không thể đáp ứng, đức Phật không ngại sử dụng thần thông như một phương tiện. Trong khoảnh khắc co duỗi cánh tay của một người khỏe mạnh, Ngài đã có mặt ở nơi cần đến. Đây là lý do chính đáng để sử dụng thần thông biến hóa. Điều này đối với Ngài bình thường và đơn giản, như thể chúng ta sử dụng các phương tiện đi lại để phục vụ cho nhu cầu của mình. Khi nào không gấp gáp và đoạn đường gần, ta đi bộ. Khi khoảng cách xa, ta đi xe máy và với không gian xa nữa, ta đi ô tô, máy bay.
Không những đức Phật mà các đệ tử dưới sự hướng dẫn trực tiếp của Ngài cũng không lạm dụng việc thi triển thần thông. Có lần chư tăng đến nhà gia chủ Citta thọ trai theo lời mời của gia chủ. Hôm đó, trời nóng gay gắt, chư tăng đổ mồ hôi “thân như bị chảy thành nước”. Trong lúc ấy, có vị tỳ kheo Mahaka mới tu chưa được bao lâu, liền dùng thần thông khiến cho có gió mát, có giông nổi lên và mưa bắt đầu rơi hạt, trời dịu mát. Rồi tỳ kheo trẻ này thưa vị trưởng lão trong chúng “như vậy là vừa rồi, bạch trưởng lão” thì trưởng lão ấy cũng xác nhận “như vậy là đủ rồi, cúng dường vậy là đủ rồi”. Sau đó, gia chủ Citta cảm kích năng lực thần thông của tỳ kheo Mahaka, mới theo về tịnh xá vị ấy ở, yêu cầu thi triển thần thông lần nữa cho gia chủ xem. Tỳ kheo Mahaka bảo đem bó cỏ đặt trên một chiếc thượng y trong hành lang. Rồi Tôn giả Mahaka vào trong tịnh xá, gài then cửa lại, thực hành thần thông lực khiến cho ngọn lửa phun ra từ lỗ ống khóa và giữa các khe cửa, đốt cháy cỏ nhưng không đốt cháy thượng y. Gia chủ Citta đập thượng y, hoảng hốt, lông tóc dựng ngược. Tỳ kheo Mahaka, từ tịnh xá đi ra và nói với gia chủ Citta “thôi, như vậy là vừa rồi”. (Tương ưng bộ kinh, tập IV, chương XII, kinh số 4).
Như vậy, khi cần thiết, trong trường hợp này là lúc trời nóng quá, tạo nênsự khó chịu, không thể tập trung, ảnh hưởng đến sự thanh tịnh của chúng tăng khi đang thọ thực tại nhà gia chủ, chư tăng cũng có thể vận thần thông để đem lại sự mát mẻ, dễ chịu cho đại chúng. Trong một trường hợp khác, khi gia chủ yêu cầu, để xác chứng kết quả tu tập của mình nhằm tạo niềm tin vào Tam bảo cho người mới tiếp cận giáo pháp, Ngài cũng cho phép chư tăng thể hiện năng lực thần thông. Tuy nhiên, người thi triển thần thông không sa đà vào đó mà dừng lại ở điểm “như vậy là đủ rồi”, vì kết quả tu tập của một hành giả đâu chỉ ở khả năng thi triển thần thông? Rất nhẹ nhàng, bức thông điệp Ngài trao gởi cho các đệ tử rằng, đây chỉ là phương tiện để tạo môi trường tốt nhất, tâm lý thoải mái nhất để chư tăng thực hành và hướng dẫn chánh pháp mà thôi. Quan điểm của đức Phật rất rõ ràng, nhất quán rằng chỉ thi triển thần thông khi thật sự cần thiết và chỉ để phục vụ cho việc hoằng pháp mà thôi.
Đức Phật không dùng thần thông để chiêu dụ người
Trong nhiệm vụ cảm hóa người khác bằng con đường giáo dục, chúng ta thấy đức Phật đã lựa chọn một phương pháp rất đặc biệt, như được ghi chép trong kinh Kevaddha (Trường Bộ Kinh, số 11). Kenvaddha yêu cầu đức Phật dạy cho Tỳ kheo hiện pháp thần thông để nhiếp phục dân chúng ở Nalanda. Thế Tôn từ chối không chấp nhận và dạy rằng trong ba pháp thần thông: Thần túc thông, Tha tâm thông, và Giáo hóa thần thông, Ngài chỉ lựa chọn Giáo hóa thần thông, tức là chỉ sử dụng phép màu của giáo dục để cảm hóa mọi người mà thôi. Trong quá trình thực hiện giáo dục thần thông này, trong một số tình huống cần thiết, Ngài sử dụng các loại thần thông kia như những phương tiện hỗ trợ cho quá trình này diễn ra hiệu quả hơn.
Biến hóa thần thông và tha tâm thần thông là kết quả của sự tu tập, thực hành chánh pháp, do vậy, Ngài dùng từ “thành tựu” khi nói về các loại thần thông này. Tuy nhiên, đây chưa phải là cứu cánh giải thoát, nên đừng để dính mắc vào sự thành tựu này mà chướng ngại trên đường tu tập. Vả lại, không vì khả năng hơn người này mà sử dụng tùy tiện với mục đích không cao thượng. Đoạn kinh trên là một hồi chuông cảnh tỉnh cho hàng đệ tử xuất gia của Phật, không sử dụng chiêu trò gì, dưới bất kỳ hình thức nào, để lôi kéo, thu hút dân chúng đến với mục đích cho đông đảo về số lượng. Nhiệm vụ của người xuất gia là thắp sáng tâm lành của người tu học Phật, đáp ứng nhu cầu học pháp và hành pháp cho người có duyên với Phật pháp, chứ không phải dùng các cách “đắc nhân tâm” không phù hợp với chánh pháp chiêu dụ cho đông đảo người về với mình vì mục đích lợi dưỡng. Nếu không nhắc nhở mình, người hướng dẫn pháp dễ dàng đi lệch hướng và bị cuốn vào vòng xoáy danh lợi khi sống bao vây giữa sự cung kính và lợi dưỡng của dân chúng mà xa dần con đường thực hành và hướng dẫn nếp sống phạm hạnh.
Có tình huống đức Phật tạm thời dùng thần thông trong một thời điểm nào đó đối với chúng sanh còn mê mờ chưa giác ngộ, nhưng đó chỉ là phương tiện để dắt dẫn đối tượng đến với sự thực hành giáo pháp. Câu chuyện về tôn giả Nanda, một người em cùng cha khác mẹ với đức Phật, cho chúng ta thấy đức Phật dùng thần thông để đưa Nanda lên quan sát cõi trời, nhìn thấy các thiên nữ xinh đẹp để Nanda so sánh sắc đẹp của các thiên nữ với người vợ đẹp mới cưới của mình, rồi đức Phật hứa sẽ cưới 500 thiên nữ xinh đẹp cho Nanda sau khi Nanda thực hành phạm hạnh rốt ráo, thành tựu đạo quả. Rốt cuộc, trong quá trình thực hành pháp, cảm nhận được hạnh phúc tối thượng của đời sống giải thoát, không dính mắc, tự tại của người xuất gia phạm hạnh, tôn giả Nanda đến đức Phật xin hủy lời hứa trước kia (Chú giải Kinh Pháp cú). Ở đây, đức Phật dùng thần thông để chiêu dụ Nanda đến với giáo pháp, nhưng đó chỉ là cái cớ để tạo duyên cho Nanda thực hành pháp và chứng nghiệm hạnh phúc giải thoát; đây mới là mục đích của đức Phật vậy.
Dùng thần thông để có thể dễ dàng tiếp cận đối tượng
Đức Phật thường sử dụng các loại thần thông như là một phương tiện hỗ trợ cho công việc giáo hóa của Ngài được thuận tiện hơn và hiệu quả hơn. Cách Ngài sử dụng biến hóa thần thông và tha tâm thần thông trong các trường hợp đặc biệt được trình bày ở đây cho chúng ta hiểu rõ hơn về điều này. Trong một số tình huống, Ngài dùng thần thông để có thể tiếp cận đối tượng cần giáo hóa một cách dễ dàng hơn, cụ thể nhất là trường hợp đức Phật độ tướng cướp Angulimāla (Trung bộ kinh số 86: Kinh Angulimāla; Trưởng lão tăng kệ, câu 866 đến 891). Khi cần thiết, Ngài dùng thần thông hiển lộ đầy đủ 32 tướng đại nhân để nhiếp phục một nhóm bà la môn ngoại đạo quy ngưỡng Ngài và sẵn lòng tiếp nhận giáo pháp giải thoát (Trung bộ kinh số 91: Kinh Brahmayu; Kinh số 92: Kinh Sela). Ta tìm hiểu kỹ hơn về trường hợp Ngài độ tướng cướp Angulimāla. Đây là một trong vài trường hợp hiếm hoi đức Phật sử dụng biến hóa thần thông. Để có thể tiếp cận với tướng cướp hung hãn này, đức Phật chọn cách dùng đến thần thông là điều hợp lý nhất, vừa để kịp thời tiếp cận đối tượng, vừa tạo uy lực trước Angulimāla. Chính sự phi thường của đức Phật bước đầu gây tò mò và thán phục đối với Angulimāla, để rồi từ đó, đức Phật có khả năng cảm hóa tướng cướp bạo tàn này chịu dừng lại để có cuộc đối thoại với Ngài. Chính sự biến hóa thần thông của đức Phật đã giúp tên cướp này thay đổi cách ứng xử. Angulimāla đã hành xử hoàn toàn khác với đức Phật, thay vì với bao nhiêu người trước đó, hễ gặp mặt là tên cướp này liền giết một cách vô cảm, chặt ngón tay kết thành vòng hoa, rồi tiếp tục đi tìm đối tượng khác để giết. Để tiếp cận một tên sát nhân máu lạnh như vậy, sử dụng biến hóa thần thông là điều vô cùng cần thiết và hợp lý.
Thế nhưng, thần thông biến hóa này cũng chỉ được đức Phật sử dụng rất hạn chế như một phương tiện để hỗ trợ quá trình cảm hóa, giáo hóa và giúp người chuyển hóa, chứ không hề lạm dụng. Mục đích rốt ráo, cứu cánh của đức Phật là đưa Angulimāla ra khỏi quỹ đạo sống tội lỗi, tà kiến, mê si và đặt người này vào con đường thực hành chánh pháp. Đức Phật đã tương kế tựu kế để có thể gởi bức thông điệp có tác dụng đánh động mạnh mẽ tâm thức của Angulimāla bằng câu nói “Ta đã dừng từ lâu; còn ngươi thì chưa dừng”. Đức Phật đã thành công trong việc cho người bệnh nặng uống thuốc bằng cách “cho ăn kẹo trước, bảo uống thuốc sau”, trước Ngài thể hiện thần thông, nhằm thỏa mãn lòng ham muốn hiếu kỳ của tướng cướp này, sau Ngài dùng tâm từ bi và trí tuệ để nhiếp phục Angulimāla. Nhìn cả quá trình cảm hóa này, ta thấy nhờ những lời khai tâm mở trí của đức Phật đúng thời điểm mà một tướng cướp khát máu đã trở thành một vị tỳ kheo mẫu mực trong tăng đoàn. Đây là gì mà không phải giáo hóa thần thông?
Trong suốt cuộc đời giáo hóa chúng sanh với mục đích giúp người chuyển mê khai ngộ, đức Phật chỉ chú trọng đến giáo hóa thần thông, còn biến hóa thần thông và tha tâm thần thông, Ngài cho rằng đó là sự huyễn hóa, nguy hại và vô ích, đưa đến nhiều nguy hiểm nếu lạm dụng chúng (Tăng chi bộ kinh, chương Ba pháp, phẩm VI, kinh 60). Thế nhưng, nếu biết kết hợp và sử dụng đúng lúc, có chừng mực thì những khả năng thần thông này có thể hỗ trợ hiệu quả trong quá trình giáo hóa, giúp người khai tâm mở trí và đức Phật rất thành công khi làm như vậy.
Dùng thần thông để hiểu tâm ý của đối tượng nhằm giáo hóa tốt hơn
Đức Phật ít dùng thần thông, nhưng trong Kinh nói với Canki (Trung bộ kinh, số 95), trong ngữ cảnh đó, Đức Phật đã dùng tha tâm thông để đọc ý nghĩ của bà la môn trẻ Kapathika. Thực tế là Đức Phật không sử dụng thần thông để phô trương, với mục đích trình diễn, nhưng Ngài sử dụng tha tâm thông như là một công cụ hỗ trợ cho giáo hóa thần thông mà Ngài thường xuyên sử dụng. Trước khi đi khất thực, với tha tâm thông, đức Phật thường quán chiếu nhân duyên của chúng sanh, rồi quyết định độ người nào, đi hướng nào trong buổi khất thực ngày đó. Với cách này, đức Phật sử dụng thời gian hiệu quả nhất và nhờ đó, những người có duyên với giáo pháp có cơ hội quý báu được gặp Ngài và chuyển hóa tâm một cách toàn triệt. Kinh cũng ghi lại trong nhiều trường hợp, ngay sau khi được Phật khai ngộ, người ấy liền quy ngưỡng Tam bảo, rồi qua đời ngay sau đó, cậu chuyện cậu bé bệnh nặng bị cha đưa ra nằm vỉa hè, kịp gặp Phật và phát khởi niềm tin Tam bảo trước khi chết (duyên khởi câu Pháp cú số 2); vị tỳ kheo vừa được đức Phật hóa độ, cho xuất gia bị bò húc chết (duyên khởi câu Pháp cú 101) là vài điển hình (Chú giải Kinh Pháp cú). Nhờ sử dụng tha tâm thông trong quá trình giáo hóa, rất nhiều người được lợi ích thiết thực, chuyển hóa khổ đau, sống đời hạnh phúc.
Trong nhiều trường hợp, để việc giáo hóa càng thêm hiệu quả và bớt đi thời gian lãng phí cũng như tiêu phí năng lượng không cần thiết cho việc đi lại, đức Phật vẫn dùng thần thông biến hóa và thần thông tha tâm để hỗ trợ cho quá trình giáo hóa được kết quả tốt nhất. Trong kinh kể lại, có lần đức Phật dùng tha tâm thông và biết có một số đệ tử có lỗi. Ngài muốn gọi các đệ tử có lỗi đến để chỉ dạy. Thay vì cho người đi tìm gọi các vị tôn giả đang độc cư thiền định một mình, mỗi người một nơi ở cách xa nhau, vừa tốn thời gian vừa nhọc sức cho người đi gọi, đức Phật nghĩ rằng: “Ta hãy thị hiện thần thông một cách khiến cho các vị Tỷ-kheo ấy đến Ta từng nhóm một hay hai người, với tâm có tội lỗi”. Thế là Ngài dụng thần thông để khiến các vị tỳ kheo tụ tập lại để Ngài chỉ dạy.(Tương ưng bộ kinh, tập III, chương I, phẩm 3, kinh số 8). Nhờ vậy, Ngài có nhiều thời gian hơn để giúp được nhiều người hơn.
Dùng thần thông để kịp thời vực dậy tinh thần cho các đệ tử
Trong hầu hết các tình huống, đức Phật đọc được tâm niệm của các đệ tử bằng năng lực của tha tâm thần thông, rồi Ngài dùng năng lực ấy để đối thoại với các đệ tử để xác chứng hoặc hướng dẫn kịp thời cho các đệ tử thực hành chánh pháp. Với tâm từ vô lượng, đức Phật luôn có mặt kịp thời để che chở, nâng đỡ tinh thần cho những đệ tử đang mất niềm tin và phương hướng trong quá trình hành trì chánh pháp. Khi cảm nhận được sự cần giúp đỡ từ các đệ tử, đúng nghĩa một vị Đạo sư, người thầy nâng đỡ tinh thần, đức Phật không bỏ qua cơ hội để giúp, trong thời gian sớm nhất có thể, giúp người ấy kịp thời tháo gỡ vấn đề. Thế nhưng, mục đích của việc vận thần thông là để có mặt kịp thời khi người ấy cần, và khi đến nơi tiếp cận được đối tượng thì đức Phật lại dùng trí tuệ để giải thích vấn đề, hướng dẫn để tháo gỡ rắc rối mà người kia đang gặp phải, hoặc kịp thời điều chỉnh sự tu tập cho có kết quả.
Tôn giả Cūlapanthaka là người học chậm, bị anh ruột là tôn giả Mahapanthaka chê bai thậm tệ và đuổi về nhà sống đời cư sĩ. Vì quá quý trọng pháp của Phật nhưng không thế học thuộc bài kệ, câu kinh nào, đang hoang mang, buồn nản và mất phương hướng, đức Phật sau khi dùng tha tâm thông quán chiếu và hiểu rõ tâm của tôn giả Cūlapanthaka, vận thần thông đến gặp tôn giả này an ủi, vỗ về, khuyến khích và hướng dẫn pháp tu phù hợp. Nhờ đó, tôn giả Cūlapanthaka thành tựu đạo quả giải thoát. Nhân sự kiện này, đức Phật nói câu pháp cú số 25 rằng:
Nỗ lực, không phóng dật,
Tự điều, khéo chế ngự.
Bậc trí xây hòn đảo,
Nước lụt khó ngập tràn.
 (Pháp cú, câu 25)
Sự kiện này được ghi lại trong Trưởng lão Tăng kệ và chú giải kinh Pháp cú. Những câu kệ số 557 đến 566 trong Trưởng lão Tăng kệ là do trưởng lão Cūlapanthaka nói ra sau khi chứng quả.
Câu chuyện của tôn giả Sona, vì thiếu chánh niệm để phiền não chi phối, mà muốn trở lại đời sống thế tục, làm các công đức, hưởng thụ hạnh phúc như một người cư sĩ tại gia bình thường. Với tha tâm thông, đức Phật biết rõ tâm niệm của người đệ tử này, liền vận dụng thần túc đến trước Sona, hỏi thầy về những suy nghĩ vừa rồi. Sona thú thực mình có suy nghĩ thối lui trên đường thực hành pháp như vậy. Phật liền hỏi thầy về phương pháp chơi đàn Tỳ bà - vốn là sở trường của Sona trước khi xuất gia - để nhân đó khích lệ tôn giả tiếp tục tinh tấn, giữ tâm trí quân bình, không quá căng thẳng, không quá thụ động thì sự tu tập mới đạt được tiến bộ. Tôn giả Sona đã vượt qua tâm lý chán nản, thối lui mà tinh tấn tu tập, nhờ đó, thành tựu cứu cánh giải thoát. (Kinh Tăng Chi Bộ, tập III, chương VI, phẩm , Kinh Sona). Tha tâm thông và thần túc thông được đức Phật sử dụng thuần túy như một công cụ đúng lúc để có mặt kịp thời nhằm giúp tôn giả Sona vượt qua tâm chán nản, thối đọa khi chưa tìm ra phương pháp tu tập hiệu quả.
Dùng thần thông để nhắc tâm các đệ tử trong quá trình hành trì
Có khi cần khuyên nhắc các đệ tử trong quá trình hành trì, đức Phật cũng sử dụng thần thông để đến tận nơi người Ngài muốn gặp trong thời gian nhanh nhất. Bởi vì thời gian tính rất quan trọng ở đây khi Ngài không muốn nhìn thấy các đệ tử chịu áp lực, bức bách, bất an với những vấn đề chưa tìm được hướng giải quyết. Có lần, tôn giả Moggallāna kể lại với các huynh đệ về một cuộc đối thoại với đức Phật khi Ngài đang ở Sāvatthi, còn Moggallāna đang ở Rājagaha và khoảng cách giữa hai nơi này khoảng 650 cây số. Khi các huynh đệ thắc mắc, hỏi Moggallāna đi đến chỗ đức Phật bằng thần thông hay đức Phật đến chỗ Moggallāna bằng thần thông, thì tôn giả Moggallāna trả lời rằng cả đức Phật và tôn giả Moggallāna đều không dùng thần thông để đến gần nhau về phương diện địa lý, mà bằng thiên nhãn thanh tịnh, thiên nhĩ thanh tịnh, tôn giả Moggallāna và đức Phật đã kết nối được với nhau và khi đức Phật giáo hóa, tôn giả Moggallāna có thể “bắt sóng” mà lãnh hội trọn vẹn lời giáo huấn ấy mà không cần phải thân hành đến tận nơi đức Phật ở. Khi tôn giả Moggallāna nêu lên thắc mắc của mình về tinh cần, tinh tấn, đức Phật đã trả lời thắc mắc cho Moggallāna (Tương ưng bộ kinh, tập II, chương X, kinh số 3 -S.ii,275).
Trong một bài kinh khác, tôn giả Moggalāna kể lại với các huynh đệ rằng “rồi này chư Hiền, Thế Tôn với thần thông đi đến tôi và nói: Này Moggalāna, này Moggalāna, chớ có phóng dật Thiền thứ nhất. Này Moggalāna, hãy đặt tâm vào Thiền thứ nhất! Hãy nhứt tâm vào Thiền thứ nhất”. (Tương ưng bộ kinh, tập IV, chương VI, kinh số 1). Nhờ đó, tôn giả Moggalāna kịp thời chánh niệm, trở về với đề mục thiền quán của mình, tinh tấn tu tập.
Mặc dù thần thông là năng lực đặc biệt và là kết quả của sự tu chứng cần phải có sự thực hành và thành tựu tâm linh. Tuy nhiên, cách đức Phật sử dụng thần thông trong các trường hợp cần thiết và hợp lý thay cho lời răn nhắc các đệ tử không sa đà với những biểu hiện kỳ lạ, đặc biệt hơn người này, vì đây chưa phải là mục đích của người tu học đúng pháp. Đây chỉ là những cảnh đẹp ven đường ta đi mà thôi. Ta có thể thưởng thức, nhưng biết lướt qua, chứ đừng sa đà dừng lại khi chưa đến đích. Nếu sử dụng những năng lực đặc biệt này vào mục đích giáo dục thì nó hỗ trợ đắc lực cho quá trình học đạo diễn ra hiệu quả hơn, tiết kiệm được thời gian và năng lượng cho người học và người dạy. Tuy nhiên, nếu xem đây là cứu cánh trong cuộc sống tu học và sử dụng năng lực thần thông để thị uy, động cơ để biểu diễn thần thông xuất phát từ tâm tham cầu, muốn người khác nể phục, trầm trồ ngợi khen hoặc xem thần thông là biểu hiện duy nhất của quá trình tu chứng mà dành cho vị ấy nhiều lợi dưỡng cùng với sự cung kính, tung hô khen ngợi quá mức thì thần thông ấy bị tổn giảm. Một chi tiết xác nhận vấn đề này là khi Devadatta khởi lên ý muốn như sau: “Ta sẽ lãnh đạo chúng Tăng”. Với tâm khởi lên như vậy, thần thông của Devadatta bị thối thất (Tăng chi bộ kinh, chương Năm pháp, phẩm X, kinh số 100).
Sự bế tắc của các đệ tử về phương pháp hành trì được đức Phật kịp thời khai thông, giải tỏa nhờ vào sự hỗ trợ của tha tâm thần thông và biến hóa thần thông. Nếu chậm trễ trong quá trình di chuyển từ nơi này đến nơi khác hoặc bỏ qua việc đọc tâm của các đệ tử, rất nhiều người sẽ mất đi cơ hội khai mở tâm trí và thực hành giáo pháp để được thăng hoa trên lộ trình tu tập giải thoát.
Giáo hóa thần thông là siêu việt hơn cả
Về biến hóa và tha tâm thần thông, được dân chúng ưa chuộng và tôn là khả năng hơn người, đáng được ngưỡng mộ khi gọi đó là “các pháp thượng nhân”. Người ta thường coi đây là dấu hiệu của người tu chứng khi phàn nàn với đức Phật rằng, “thuở xưa, các Tỷ-kheo ít hơn, nhưng nhiều hơn là các pháp thượng nhân, các thần thông thần biến được thị hiện. Ngày nay, các Tỷ-kheo nhiều hơn, nhưng ít hơn là các pháp thượng nhân, các thần thông thần biến được thị hiện”. (Tăng chi bộ kinh, chương III, kinh số 60: Sangārava). Thế nhưng, đức Phật xác định, trong ba loại thần thông kể trên, Ngài chỉ chấp nhận loại thần thông thứ ba, tức giáo hóa thần thông, đưa con người từ mê đến giác ngộ, từ đau khổ đến an lạc, từ sinh tử đến Niết bàn, là quý báu hơn, kỳ diệu tuyệt vời hơn cả. Không những đức Phật mà ngay cả bà la môn có hiểu biết cũng tán thành quan điểm rằng, chỉ có giáo hóa thần thông là ưu việt hơn, tuyệt vời hơn trong các loại thần thông (Tăng chi bộ kinh, chương III, phẩm VI, kinh 60: Sangārava).
Đối với đức Phật, những lời thuyết pháp của Ngài chứa đựng yếu tố thần thông, vì nó có khả năng tối thượng, kỳ diệu vô cùng. Trên cơ sở này, đức Phật khuyến khích chúng ta nên cho nhau giáo pháp, là sự bố thí tối thượng ở đời (Kinh Pháp cú, câu 354). Bằng sự giải thích rõ ràng với một thái độ từ tốn, dung hòa, Ngài đã cảm hóa vô số người ngoại đạo về với Ngài và quy ngưỡng xuất gia, sống đời phạm hạnh. Có nhiều người ngoại đạo rất hung hăng, kỳ thị với Ngài đều tâm phục khẩu phục sau khi gặp và nghe Ngài thuyết giảng, có người trải qua cảm xúc mạnh đến mức lông tóc dựng ngược (Đại kinh Sư tử hống, Trung bộ kinh số 12). Trong rất nhiều bài kinh, điển hình như kinh Sa môn quả, kinh số 2 trongTrường bộ kinh, ghi nhận năng lực đặc biệt của đức Phật được tất cả, kể cả ngoại đạo tán thán là “như người dựng đứng lại những gì bị quăng xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc”. Đây chính là năng lực tuyệt vời của giáo hóa thần thông. Bằng cách giảng giải giáo pháp một cách hợp lý, phù hợp với đối tượng, chọn phương pháp truyền đạt hiệu quả, với lòng thương tưởng người học, Ngài đã giúp bao người thay đổi một cách nhanh chóng, tâm thức chuyển động mạnh mẽ và toàn triệt để trở thành một người thuần thiện, hoàn toàn khác hẳn với chính mình trong giây phút trước. Đây là gì mà không phải thần thông?Sau đây là vài điển hình trong vô số câu chuyện về sự nhiệm màu của giáo hóa thần thông. Chính lời giảng pháp của đức Phật khiến cho người ác như Angulimāla quay đầu và trở thành một bậc thánh tăng trong tăng đoàn (Kinh số 86, Trung bộ kinh; Trưởng lão tăng kệ, kệ số 866-891). Ở một trường hợp khác, kinh kể rằng với tha tâm thông, đức Phật quán thấy vương tử Mahākappina có ý định từ bỏ vương quốc, dẫn theo một đoàn tùy tùng xin xuất gia. Thế là đức Phật vận thần thông bay qua sông, đến gần nơi vương tử Mahākappina, ngồi nhập định, phóng ánh sáng hào quang. Khi vương tử Mahākappina và các tùy tùy đến đảnh lễ và xin nghe pháp. Sau khi đức Phật thuyết pháp, tất cả đều chứng A la hán. Lúc ấy, Ngài lại vận thần thông đem tất cả về tinh xá Kỳ Viên trong chớp mắt. Trưởng lão Mahākappina giác ngộ nhờ vào nghe pháp, tinh tấn thực hành phạm hạnh và trở thành bậc thuyết pháp đệ nhất trong tăng chúng. Kinh nghiệm tu tập của trưởng lão Mahākappina được đúc kết trong các câu kệ số 547 đến 556 trong Trưởng lão Tăng kệ.
Nhiều câu chuyện về sự tiếp độ và chuyển hóa chúng đệ tử Ni cũng vô cùng kỳ diệu và sự chuyển động tâm thức của đối tượng diễn ra rất mạnh mẽ trong khoảnh khắc ngắn ngủi với sức mạnh của giáo hóa thần thông. Chính những lời pháp của Ngài có tác dụng giúp Kisagotami bừng tỉnh, hiểu được luật vô thường chi phối tất cả các pháp thế gian, nên đã vơi đi khổ đau trước cái chết của đứa con yêu dấu. Ngay sau khi nghe pháp, Kisagotami chứng sơ quả dự lưu và phát tâm xuất gia. Tỳ kheo ni Kisagotami tinh tấn thực hành pháp, trở thành một vị thánh ni trong chúng đệ tử Ngài. Với những trải nghiệm thăng trầm trong cuộc sống cùng với sự chiêm nghiệm tự thân trong quá trình thực hành pháp, trưởng lão Ni Kisagotami đã nói lên những vần kệ được ghi lại trong “Trưởng lão Ni kệ” câu 113 đến 123(Trưởng lão ni kệ). Ở một trường hợp khác, Patācārāmất những người thân yêu nhất của bà. Cha mẹ, chồng, anh trai vàhai đứa con. Bà hóa điên, Đức Phật đã an ủi bà và bà đã học được cách đối đầu với sự đau khổ bằng sự hiểu biết bản chất cuộc sống. Nghe đức Phật thuyết pháp xong, ngay lúc đó, Patācārā chứng quả Dự lưu và xin xuất gia. Sau một thời gian ngắn tinh tấn tu hành, tỳ kheo ni Patācārā chứng quả A la hán, là một trong những vị trưởng lão Ni thời đức Phật. Từ kinh nghiệm tu chứng, trưởng lão Ni Patācārā nói ra các câu kệ 112 đến câu 121 trong tập “Trưởng lão Ni kệ” để khuyến tấn các đệ tử (Trưởng lão Ni kệ). Ở một câu chuyện khác, đức Phật đã làm được điều kỳ diệu là hóa giải nỗi đau đang đè nặng lên tâm một người phụ nữ có đứa con nhỏ vừa qua đời. Đức Phật khai tâm để người mẹ trẻ Ubbirī vơi đi nỗi khổ niềm đau khi đứa con nhỏ tên Jivā vừa qua đời khi hỏi cô ấy “nàyUbbirī, tất cả tám mươi bốn ngàn cô gái đã được thiêu đốt ở nơi hỏa táng này đều có tên Jivā, bà buồn rầu cho cô nào trong số đó?” (Trưởng lão ni kệ, câu 51). Suy ngẫm về điều này, Ubbirī đã hiểu được quy luật cuộc sống, sự vô thường và luân hồi, vượt qua được sự sầu muộn (Trưởng lão ni kệ, câu 52). Đây đích thực là thần thông của sự giáo hóa vậy.
Không những độ được người, đức Phật cảm hóa được cả con voi hung dữ Nālāgiri do Ajātasattu và Devadatta rắp tâm hại Ngài (Tạng Luật, Tiểu phẩm). Đây là lý do tại sao đức Phật tuyên bố “Ta thuyết pháp có thần thông, không phải không có thần thông, nên giáo giới cần phải làm, giảng dạy cần phải làm”. (Tăng chi bộ kinh, chương III, phẩm XIII, kinh số 123)
Chính nhờ có thần thông giáo hóa mà các đệ tử Ngài nương tựa trọn đời để tu học. “Sa-môn Gotama thuyết pháp có thần thông lực, không phải không có thần thông lực”(Trung bộ kinh số 77: Kinh Maha Sakaludayi). Chính nhờ giáo hóa thần thông mà “những nam cư sĩ của Thế Tôn đã trở thành những đệ tử chơn chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng, đa văn, duy trì Chánh pháp, đầy đủ Chánh pháp và tùy pháp, sống chơn chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi giáo lý đã có thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định, khai minh, phân tích và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi có tà đạo khởi lên, đã có thể chất vấn và hàng phục một cách khéo léo, và có thể truyền bá Chánh pháp thần diệu” (Trường bộ kinh, số 16: Đại bát Niết bàn). Nhờ đó mà chánh pháp được bảo tồn, nuôi dưỡng và lan rộng khắp nơi.
Thay lời kết
Sử dụng tha tâm thần thông và thần thông biến hóa không có gì sai. Tuy nhiên, những loại thần thông này, nếu có tác dụng và lợi ích, thì chỉ có một số ít người trực tiếp nhận được lợi ích ấy mà thôi. Tệ hơn nữa, nếu dùng thần thông chỉ để biểu diễn, thị uy, để nhận được sự ngưỡng mộ, tán thán của nhiều người để rồi thỏa hiệp với bản ngã là đi ngược lại lời Phật dạy. Tôn chỉ của đức Phật là nhân rộng mô hình sống đạo đức, thiện lành trong xã hội. Do vậy, điều cốt lõi của người hoằng dương chánh pháp là dùng mọi phương tiện, kể cả thần thông, để hướng dẫn những người đủ duyên kỹ năng sống hạnh phúc, mới đúng là “thừa tự pháp” của Phật. Những ai thực hành đúng theo chánh pháp, càng lúc càng bớt tham, bớt ràng buộc, thêm bình an và hạnh phúc thì không để vướng mắc vào những phép lạ của thần thông biến hóa hay những lời tung hô khen ngợi tầm thường ấy. Đức Phật khẳng định những thứ này chỉ là vỏ cây, cành lá không đáng cho ta hài lòng chỉ với bấy nhiêu. Chỉ khi nào thành tựu giải thoát phạm hạnh mới là rốt ráo, là lõi cây, bền vững, tối thượng, đáng cho ta trân quý giữ gìn (Trung bộ kinh số 29: Đại kinh ví dụ lõi cây).
Cách đức Phật sử dụng thần thông một lần nữa khẳng định vị trí trọng tâm của giáo dục con người trong toàn bộ giáo lý của Ngài. Đức Phật rất rạch ròi khi dùng tha tâm thần thông và biến hóa thần thông như một phương tiện hỗ trợ cho việc giáo hóa, còn khéo léo vận dụng những phương pháp, kỹ năng và nghệ thuật giáo dục để giúp mọi người chuyển hóa tâm thức, thay đổi tận căn cội từ nhận thức là mục đích tối hậu của đức Phật. Sử dụng thần thông như một phương tiện thiện xảocũng chỉ nhằm đến mục đích khai ngộ cho con người về sự thật khổ đau, nguyên nhân khổ đau, sự an lạc, hạnh phúc tối thượng khi chấm dứt hoàn toàn khổ đau và những phương cách thực hành để hiện thực hóa hạnh phúc này ngay trong đời sống hiện tại. Do vậy, tất cả những gì chúng ta làm, kể cả năng lực đặc biệt của thần thông, đều hướng đến quá trình thực hành và giúp người khác cùng thực hành trên lộ trình chuyển xấu ác thành thiện lành, đảo điên thành tĩnh lặng, mê mờ thành trí tuệ, khổ đau thành hạnh phúc mới đúng là thực hành chánh pháp.
Chính quan điểm giáo hóa là thần thông mà trọn đời đức Phật dành cho việc thi triển loại thần thông cao quý này và Ngài khuyến khích các đệ tử tích cực sử dụng loại thần thông này qua lời sách tấn khẩn thiết đầy tâm huyết và chan chứa yêu thương bao trùm cả muôn loài rằng“Này các Tỳ kheo! Hãy đi vì lợi lạc của nhiều người, vì hạnh phúc của số đông, vì lòng lân mẫn đối với thế gian, vì lợi lạc, vì hạnh phúc của trời và người. Các ông hãy đi, nhưng đừng đi hai người cùng một hướng, hãy đi mỗi người một ngả, hãy truyền bá chánh pháp” (Đại phẩm 19-20, Luật tạng; Tương ưng bộ kinh Tập I, chương IV, phẩm I, kinh số 5: Bẫy sập). Chính nhờ giáo hóa thần thông mà trong suốt gần 26 thế kỷ qua, chánh pháp vẫn còn trường tồn ở nhân gian, phổ biến cùng khắp, đem lại lợi lạc cho quần sanh.
Học từ Ngài, để không lạc lối hoặc đi quá xa với chánh pháp và tôn chỉ hoằng pháp của đức Phật, chúng ta cần phân định rõ ràng đâu là mục đích, đâu là phương tiện để vững tin trên con đường thực hành và truyền bá chánh pháp. Người đệ tử Phật cần kiên định rằng, ta chỉ nên sử dụng mọi phương tiện cho mục đích duy nhất là cảm hóa nhân tâm mà thôi. Trên tinh thần ấy, bao thế hệ Tổ Thầy đã không mệt mỏi trên con đường sử dụng giáo hóa thần thông để thắp sáng ngọn đèn Phật pháp ở thế gian và khơi mạch nguồn tâm linh cho bao người. Chính vận dụng phép màu của giáo hóa, mà chúng ta ngày nay, những người cách xa Phật đã 26 thế kỷ, có được lợi ích thiết thực từ những lời dạy của Ngài. Chính nhờ thần thông vi diệu của giáo hóa, chánh pháp mới có sức lan tỏa trong không gian rộng lớn và thời gian lâu xa đến ngày nay và mãi ngàn sau.


Hằng Như


Nguồn: http://hang-nhu.blogspot.com.au/